You are here

Đảng CSVN đang đưa đất nước đi về đâu?


Kami

-
Trong bài "Chuyện bỏ đảng chạy lấy người" của cách đây ít ngày, trong đó có đoạn tôi  viết rằng "Cũng bởi cái đảng CSVN hiện nay không còn chút gì là đảng cộng sản. Đảng CSVN giờ chỉ còn cái tên để lừa bịp, còn bây giờ đảng CSVN đang theo chủ nghĩa nào, đường lối nào, không ai biết. Kể cả chính những người lãnh đạo của đảng CSVN cũng vậy, nhưng họ cứ vờ vịt, à ơi để lừa những người nhẹ dạ.". Điều này đã khiến không ít độc giả (có lẽ) là là các cụ, các bác cựu chiến binh đã tỏ ra  bất bình, không đòng ý. Điều này thể hiện thông qua các phản hồi dưới nhiều hình thức (comments, e-mail) cho rằng tôi có góc nhìn lệch lạc, sai lệch về Đảng CSVN, một chính đảng đang giữ vai trò lãnh đạo công cuộc đổi mới của cách mạng Việt nam. Mà theo họ bằng chứng cụ thể là về sự phát triển kinh tế, xã hội có những bước phát triển vượt bậc, đời sống đã có những bước thay đổi lớn và cơ bản.

Điều các độc giả phản hồi cũng có lý của họ, nhưng theo tôi nghĩ có lẽ hình như họ quên lẽ tự nhiên, họ quên rằng sự phát triển tiến lên của xã hội là quy luật tất yếu. Nó cũng ví như chiếc lá ta bỏ xuống dòng nước chảy, dĩ nhiên nó (chiếc lá) phải trôi đi về phía trước theo dòng nước mà chẳng cần sự lãnh đạo tài tình nào, vì dòng chảy ví như là quy luật tự nó làm chiếc lá trôi đi. Điều quan trọng là ta bỏ chiếc lá xuống dòng chảy nào là quan trọng, vì có nhiều dòng chảy khác nhau. Có những dòng chảy phù hợp và không phù hợp, hay phù hợp ít hoặc nhiều so với quy luật phát triển mang xu hướng tiến bộ của xã hội loài người. Việc lựa chọn dòng chảy nào để quyết định bỏ chiếc lá xuống để nó trôi băng băng, không khúc mắc mới đòi hỏi sự sáng suốt, tài tình của người lãnh đạo nói riêng hay chính đảng của họ nói chung. Nhưng điều này sẽ được kiểm chứng để rút ra kết luận chính xác dễ dàng nếu có được sự so sánh (đối chứng) trong việc lựa chọn dòng chảy nào để bỏ chiếc lá xuống giữa ông A, ông B, ông C… của chính đảng X, chính đảng Y, chính đảng Z…
Nói tóm lại là nếu có sự cạnh tranh theo phương thức đa đảng trong chính trị sẽ thấy rõ ai đúng sai, ai tốt xấu ngay, ngược lại nếu còn độc đảng thì mãi vẫn là “Mất mùa đổ tại thiên tai – Được mùa thì bảo thiển tài đảng ta”, nghĩa là không có sự cạnh tranh thì không tạo ra mâu thuẫn, không có sự giải quyết mâu thuẫn thì không có động lực của sự phát triển của xã hội như luận điểm của Lê nin. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với quy luật tự nhiên của sự phát triển vạn vận trong thế giới con người.
Chúng ta đều biết, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx, hình thái kinh tế – xã hội loài người đã trải qua các thời kỳ với các chế độ khác nhau được phát triển hoàn thiện dần trên cơ sở phát triển của xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao, từ xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản và cuối cùng là xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà xã hội chủ nghĩa là giai đoạn quá độ trước khi bước vào chế độ xã hội cộng sản. Khi ấy thì con người là theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Nghĩa là theo lý luận trên thì phương thức sản xuất cũ, lạc hậu sẽ bị đào thải bởi sự tiên tiến và hoàn thiện hơn của hình thái phương thức sản xuất mới, cũng theo đó thì cái chủ nghĩa xã hội mà đảng CSVN đang theo đuổi mấy chục năm qua sẽ phải ưu việt hơn cái chủ nghĩa tư bản. Vậy tại sao năm 1986 đảng CSVN phải đổi mới về kinh tế để quay lại phương thức sản xuất TBCN với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN? Đây là bước đi thụt lùi của đảng CSVN so với lý thuyết của chủ nghĩa duy vật biện chứng hay không?
Những được học tập giáo dục dưới chế độ hiện tại ở Việt nam cũng đều hiểu rõ sự lạc hậu và sự trì trệ chậm phát triển của chế độ phong kiến. Trong môn Lịch sử đảng CSVN, phần “Luận cương chính trị” của Đảng CS Đông dương (tiền thân của đảng CSVN hiện nay) đã ghi rõ mục tiêu của cách mạng vô sản là “đả Thực – bài Phong”, nghĩa là đánh đuổi thực dân đế quốc và tiêu trừ, xóa bỏ chế độ phong kiến. Với mục tiêu đó bằng nhiều sách lược, thủ đoạn chính trị từ vận động, tổ chức.. và kết hợp với các yếu tố lịch sử khác thuận lợi, cuối cùng đảng CSVN đã giành được chính quyền về tay mình thông qua cuộc Cách mạng tháng 8/1945.
Và đây cũng là thời điểm những người cộng sản đã tuyên bố cáo chung chế độ phong kiến đã tồn tại trong hàng nghìn năm lịch sử, thông qua việc thoái vị của Vua Bảo Đại, ông Vua cuối cùng của lịch sử chế độ phong kiến ở Việt nam. Rồi cũng từ đó lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt nam, một chính thể dân chủ, cộng hòa đã được thành lập trên đất nước Việt nam từ ngày 2/9/1945 và đặc biệt là cuộc bầu cử Quốc hội khóa I vào tháng 1 năm 1946 hoàn toàn dân chủ, tự do làm cơ sở ra đời bản Hiến pháp nước VNDCCH năm 1946. Như vậy mục tiêu “đả thực và bài phong” tưởng như đã hòan thành, chế độ phong kiến vĩnh viễn biến mất trong lịch sử chính trị Việt nam.
Thông qua sự giáo dục và tuyên truyền của đảng và nhà nước Việt nam kéo dài trong nhiều chục năm qua nên hầu hết người dân ai ai cũng cảm thấy và có suy nghĩ rằng nhờ đảng CSVN, cá nhân mình và nhiều thế hệ cha anh mình được may mắn sống trong chính thể cộng hòa dân chủ tươi đẹp, thoát khỏi xã hội phong kiến lạc hậu, độc đoán như mình đã được giáo dục. Và mọi người cũng yên trí cảm thấy tạm hài lòng với những gì mình đã có, đã được hưởng trong xã hội hiện tại tuy rằng nó còn có nhiều khó khăn và bất cập chưa được giải quyết vì đinh ninh rằng dù sao nó còn hơn vạn lần thời phong kiến.
Trở lại thắc mắc của một số độc giả, đề nghị tôi trả lời cho họ câu hỏi “Hiện bây giờ đảng CSVN nói chính xác đang ở hình thái kinh tế – xã hội nào?”, khi mà tôi cho rằng không ai biết, kể cả chính những người lãnh đạo của đảng CSVN cũng vậy. Để tìm được câu trả lời thỏa đáng, dễ hiểu và theo tôi nó mang tính thuyết phục cao thì chúng ta cùng tìm câu trả lời cho câu hỏi ” Vậy chế độ Phong kiến xa có những đặc trưng gì nổi bật nhất?”.
Trước hết cần hiểu định nghĩa về chế độ phong kiến: Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ chuyển ngữ từ chữ féodalité (hoặc féodalisme), một chữ bắt nguồn từ chữ feod trong tiếng Latinh nghĩa là “lãnh địa cha truyền con nối”. Thể chế quân chủ trong thời đại phong kiến là chế độ quân chủ chuyên chế (khác với chế độ Quân chủ lập hiến). Theo đó, mọi quyền lực, mọi chi phối các hoạt động trong xã hội gần như tuyệt đối tập trung trong tay nhà Vua hay Hội đồng nhà Vua lãnh đạo. Chế độ quân chủ thường dùng hình thức phong kiến (hình thức phân phong đất đai) để truyền nối và chiếm hữu đất đai.
Chế độ phong kiến có 6 đặc điểm nổi bật như sau:
1. Quyền lực thuộc về một người (hoặc một nhóm người) luật pháp đại diện cho ý chí của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp này. Giai cấp thống trị đứng trên Luật pháp, có một vùng cấm dành riêng cho họ.
2. Quyền định đoạt sở & hữu đất đai thuộc về một nhóm người, giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức như tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau).
3. Trong chế độ phong kiến nhân dân bị phân chia thành nhiều giai cấp khác nhau, nhằm mục đích kìm hãm sự đoàn kết của cộng đồng dân tộc để thuận tiện cho việc cai trị, dùng giai cấp này để trị giai cấp kia.
4. Là chế độ “Cha truyền con nối”: Những chức tước quan trọng và bổng lộc do một (hoặc một nhóm người) có quyền tùy ý quyết định bổ nhiệm, ban phát theo ý họ ( hoặc do mua quan bán chức)chứ không xuất phát từ nguyện vọng của dân chúng.
5. Thần thánh hóa lãnh tụ: Chế độ phong kiến sinh ra một số sản phẩm tinh thần có vai trò chi phối cách hành xử của dân chúng. Vua chúa được coi là Thiên tử (con Trời), những cá nhân lỗi lạc hoặc những lượng siêu nhiên dễ bị biến thành thần thánh, được đặt lên bệ thờ, hoặc đưa vào lăng tẩm. Ý chí của giai cấp thống trị là ý Trời, người dân sẽ bị ghép vào tội khi quân khi xúc phạm, nói trái ý hoặc bầy tỏ ý kiến khác. Cái mà thời nay bị coi là chống đối chế độ, phê bình, phê phán lãnh đạo là tội tuyên truyền chống phá chỉ có một con đường là chết.
6. Nền tảng ý thức hệ trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến. Sau này học thuyết của Nho giáo trở nên bảo thủ, ràng buộc tư tưởng tình cảm con người vào những khuôn khổ lỗi thời và kìm hãm sự phát triển xã hội. Hệ ý thức này bị biến thái trở thành “đạo” và đạo này là chính đạo, mọi thứ đạo hay tôn giáo khác đều là tà đạo và cần phải tiêu diệt.
Căn cứ vào 6 đặc điểm cơ bản và đặc trưng nhất của chế độ phong kiến để so sánh các sự kiện tương ứng đang diễn ra tại xã hội Việt nam hiện nay về chính trị, văn hóa, xã hội và tín ngưỡng thì sẽ tìm được câu trả lời thỏa đáng. Bởi nhận thấy chế độ phong kiến chuyên quyền và lạc hậu ấy nó giống y như thể chế chính trị xã hội Việt nam hiện nay do chính quyền của đảng CSVN lãnh đạo, chỉ khác nền kinh tế Việt nam thì đang ở thời kỳ tư bản hoang dã, khi mà quan hệ giữa người với người như chó sói. Còn nói đúng ra thì chế độ hiện tại ở xứ mình đang giống y như thời kỳ phong kiến, mà hình như còn có phần độc đoán, độc tài độc ác hơn, nhưng lại thiếu kỷ cương phép nước hơn.
Qua đó tôi tự hỏi mình ” Hóa ra dân tộc Việt nam ta dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, trải qua mấy chục năm chiến tranh tương tàn,đổ máu “nồi da xáo thịt”, chết chóc hàng triệu sinh linh để cái cuối cùng đạt được là: Đánh đổ chế độ phong kiến cũ một ông Vua để… xây dựng một xã hội phong kiến mới với một tập thể các ông Vua độc đoán, tàn ác hơn hay sao?”
Việt nam, Trung quốc, Cu ba và Bắc Triều tiên là cái sản phẩm còn sót lại của cái gọi là phe xã hội chủ nghĩa, với chủ nghĩa Marx – Lenine là gốc của nền tảng tư tưởng, với hy vọng xây dựng một xã hội cộng sản không tưởng. Nhưng Trung quốc, Việt nam và gần đây là Cu ba đã nhanh chân bỏ Chủ nghĩa Maxr – Lenine chạy lấy người, tuy vậy họ vẫn xưng xưng nói dối. Nếu mấy quốc gia trên họ không thay đổi thì cứ nhìn vào đất nước Bắc Triều tiên hiện nay thì khác gì chế độ phong kiến, nói đúng ra thì Việt nam chúng ta hiện nay có thể coi là một bản sao chép tồi của chính quyền Bắc Triều tiên
Còn cái danh xưng cộng sản của nhà cầm quyền Việt nam hiện nay chỉ là một cái thứ hữu danh, vô thực nhằm đánh lừa những người nhẹ dạ. Xin đừng ngộ nhận về hai chữ Cộng sản các bạn nhé !
Ngày 12 tháng 03 năm 2012
© Kami
————————
*Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA
 

Bài bình luận

vô cùng chi'nh xa'c. thank you anh Kami

Câu sau: "Rồi cũng từ đó lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt nam, một chính thể dân chủ, cộng hòa đã được thành lập trên đất nước Việt nam từ ngày 2/9/1945 và đặc biệt là cuộc bầu cử Quốc hội khóa I vào tháng 1 năm 1946 hoàn toàn dân chủ, tự do làm cơ sở ra đời bản Hiến pháp nước VNDCCH năm 1946." để tô vẽ cho là đảng CS hồi thời HCM không được khách quan lắm , vậy xin Post lại dưới đây một tiếng chuông khác về thời kỳ lịch sử VN thời Tiền chiến : http://chauxuannguyen.wordpress.com/2012/03/11/s%e1%bb%b1-th%e1%ba%adt-l%e1%bb%8bch-s%e1%bb%ad-vi%e1%bb%87t-nam-vao-nam-1945-2/ SỰ THẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO NĂM 1945 11/03/2012 chauxuannguyen Để lại phản hồi Go to comments NGÀY 11 THÁNG 3 NĂM 1945, QUỐC GIA VIỆT NAM ĐỘC LẬP THỐNG NHẤT, SAU 61 NĂM BỊ THỰC DÂN PHÁP THỐNG TRỊ (1884-1945) Nguyễn Huy Hùng/K1VBQGVN Trong suốt thời gian dài hơn 60 năm qua, nhóm người Cộng sản Việt Nam theo chủ nghiã Tam Vô chuyên chính toàn trị vong nô bán nước hại dân, đã cố tình dùng những phương tiện tuyên truyền xảo quyệt gian dối lừa bịp nhân loại, bóp méo sự thật về hoàn cảnh lịch sử mà toàn dân tộc Việt Nam đã sát cánh bên nhau giành lại được Độc lập cho đất nước sau 61 năm bị Thực dân Pháp thống trị, khi Thế giới Đại Chiến II chấm dứt. Người viết là một nhân chứng, sống trong lòng dân tộc Việt Nam trên đất nước Việt nam suốt từ Thập niên 1930 cho đến giữa Thập niên 1990, thấy có bổn phận phải ghi lại sự thật những gì đã xẩy ra trên đất nước Việt Nam, để giúp cho các thế hệ Trẻ sau này biết được sự thật về giai đoạn lịch sử này của Dân tộc Việt Nam, để thấy được những gì Cộng sản Việt Nam tiếm nhận khoe khoang phổ biến cho đến nay đều hoàn toàn không đúng với sự thật hiển nhiên đã xẩy ra. 1.- TÌNH HÌNH QUỐC TẾ KHI THẾ GIỚI ĐẠI CHIẾN II CHẤM DỨT. Sau khi Hoa Kỳ thả 2 quả bom nguyên tử xuống đất Nhật, san bằng 2 thành phố Hiroshima ngày 6 tháng 8 năm 1945, và Nagasaki ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hoàng Đế Nhật Bản phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Nhờ vậy, Thế giới Đại chiến II, do phe Trục Đức-Ý-Nhật chủ xướng từ năm 1939 được coi là chấm dứt hoàn toàn trên cả 5 Châu: Âu, Phi, Á, Úc, và Mỹ. Hết Thế giới Đại chiến II, Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ Cao trào các Tiểu nhược quốc Thuộc địa trên toàn Thế giới, đang bị các nước Thực dân Đế quốc da trắng đô hộ cai trị áp bức, vùng lên giành lại Độc lập Tự do cho Dân tộc mình, để xây dựng Thể chế Chính trị theo mô thức Dân chủ Tự do Tư bản. Khối Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Viết Nga lãnh đạo (phe đối nghịch với khối Thế giới Tự do Tư bản) cũng nhân cơ hội này, dùng các tay sai người bản xứ lôi cuốn các nhóm công nông vô sản dùng bạo lực hăm dọa song hành với phương thức truyên truyền xảo quyệt, buộc quảng đại quần chúng dân lành phải đi theo dưới mỹ từ làm Cách mạng giải phóng quê hương, để bành trướng thế lực nhằm thực hiện sách lược Xích hoá toàn Thế giới theo chủ nghĩa Cộng sản Tam Vô chuyên chính. Tại Việt Nam có tay sai bán nước hại dân là Hồ Chí Minh và nhóm đồng chí theo Quốc tế Cộng sản. 2.- HOÀN CẢNH DÂN TỘC VIỆT NAM VÀO NĂM 1945. A.- Trong nước, vào ngày Chủ Nhật 11 tháng 3 năm 1945 (hai ngày sau khi quân Nhật lật đổ Pháp nắm toàn quyền cai trị Đông Dương), Vua Bảo Đại được Vua Nhật giúp tái lập Quốc Gia Việt Nam Độc Lập (thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam) trong Khối Đại Đông Á do Nhật chủ xướng. Ông Trần Trọng Kim đã được Vua Bảo Đại cử làm Thủ Tướng thành lập chính phủ điều hành Quốc gia, và ban bố chương trình hưng quốc vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó quy định Quốc Kỳ là cờ Quẻ Ly, nền vàng giữa có biểu tượng Quẻ Ly mầu đỏ nằm dọc theo bề dài nền cờ (2 vạch dài liền, nằm song song 2 bên 1 vạch đứt quãng chính giữa, trông như chữ CÔNG của Hán tự). Quốc Ca là bài “VIỆT NAM MINH CHÂU TRỜI ĐÔNG” của nhạc sĩ Hùng Lân. Việt Nam minh châu trời Đông! Việt Nam nước thiêng Tiên Rồng! Non sông như gấm hoa uy linh một phương, Xây vinh quang ngất cao bên Thái Bình Dương. Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi, Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời. Máu ai còn vương cỏ hoa, Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà. Giơ tay cương quyết, Ta ôn lời thề ước. Hy sinh tâm huyết, Ta báo đền ơn nước. Dầu thân này gói da ngựa cũng cam, Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam. Khoảng hơn 5 tháng sau, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 (hai ngày sau khi Vua Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh do Hoa Kỳ lãnh đạo), các đoàn thể Công chức và quần chúng Việt Nam họp mít tinh trước Nhà Hát Lớn tại Hà nội, để ủng hộ ông Trần Trọng Kim tiếp tục làm Thủ Tướng. Nhưng, đã bị nhóm Việt Minh của Hồ Chí Minh trà trộn vào lèo lái biến thành cuộc xuống đường đòi Chính phủ Trần trọng Kim từ chức. Đồng thời, nhóm Hồ Chí Minh và Việt Minh cũng đưa người vào Huế làm áp lực buộc Vua Bảo Đại phải thoái vị, để nhường quyền cho nhóm Việt Minh thành lập các Ủy ban Nhân dân Cách mạng thay thế các tổ chức hành chánh của Chính phủ Trần trọng Kim. B.- Nơi Hải ngoại, những nhà yêu nước thuộc các Phe nhóm và Đảng phái Cách mạng Nhân bản Việt Nam chống Thực dân Pháp, đang lưu vong bên Trung Hoa Lục địa (trong đó có cả nhóm Việt Minh và Hồ Chí Minh*), được Chính quyền Trung hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch bảo trợ giúp hoàn cảnh cho ngồi lại với nhau, lập ra một tổ chức đoàn kết hợp nhất với danh hiệu VIỆT NAM CÁCH MẠNG ĐỒNG MINH HỘI (VNCMĐMH) do Cụ Nguyễn Hải Thần làm Chủ Tịch. [Ghi chú *: Hồ Chí Minh bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bắt giam vào tháng 10 năm 1942 trong ngục tối ở Tĩnh Tây, vì hoạt động gián điệp cho Cộng sản Nga trên đất Trung Hoa Dân Quốc, đến tháng 5-1943 bị giải sang Liễu Châu. Cụ Nguyễn Hải Thần và các nhà Cách mạng Nhân bản Việt Nam chống Pháp đang lưu vong bên Trung Hoa, thấy Hồ Chí Minh và phe Việt Minh của hắn ta cũng đang hoạt động đấu tranh chống Thực dân Pháp, nên đã vì tình nghiã Đồng bào không kỳ thị khuynh hướng chính trị Cộng sản mà Hồ Chí Minh đang theo, đồng lòng vận động bảo lãnh xin cho Hồ Chí Minh được tha ra khỏi ngục tù của Trung Hoa Dân Quốc, để cùng nhau hợp tác tiếp tục công cuộc chống Pháp và Nhật giành lại quyền Tự do Độc lập cho Dân tộc và quê hương Việt Nam. Hồ Chí Minh được tha vào ngày 10 tháng 9 năm 1943.] Vào ngày 28-8-1945, trong khi quân đội Mỹ đổ bộ lên chiếm đóng đất Nhật Bản thua trận đầu hàng, thì 5 Đoàn quân Trung Hoa Dân Quốc của ông Tưởng Giới Thạch đại diện Liên Hiệp Quốc do Tướng Lư Hán chỉ huy, cũng tiến vào Việt Nam bằng 5 ngả : Lạng Sơn, Lào kay, Lai Châu, Hà Giang, Móng Cáy, để thực hiện việc giải giới quân Phiệt Nhật tại phiá Bắc Vĩ Tuyến 16 của Bán đảo Đông Dương. Đi theo các Đạo quân Trung Hoa này, có các toán thuộc Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội về theo, để phối hợp cùng các Đoàn thể Việt Nam đấu tranh ở trong nước, thành lập Chính phủ Liên Hiệp gồm thành phần đại diện của mọi Phe nhóm Đảng phái, cũng như vận động quần chúng tham gia ứng cử và bầu cử đại diện vào Quốc Hội Lập Hiến cho Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí minh, đại diện Chính phủ Việt Minh Lâm Thời Liên Hiệp đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, trước đông đảo Đồng bào Việt Nam tham dự cuộc mít tinh tại vườn hoa Ba Đình* ở Hà Nội. [*Vườn hoa Ba đình thời Pháp thuộc gọi là vườn hoa Con Cóc, một bùng binh (rond point) ở giữa có những tượng con cóc bằng đồng đúc, ngồi quanh một chiếc hồ phun các vòi nước từ miệng ra, được xây dựng trước Phủ Toàn quyền Pháp cũ, đã được ông Trần Huy Lai Đốc lý Hà Nội thời Chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là Quảng trường Ba Đình từ ngày 3 tháng 8 năm 1945.] Lợi dụng cơ hội này, Hồ Chí Minh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Liên Hiệp đã gian manh tổ chức TUẦN LỄ VÀNG, kêu gọi nhân dân Việt Nam đóng góp vàng để mua súng chống Pháp tái xâm lăng Việt Nam. Nhưng thực tế, Hồ Chí Minh đã dùng số vàng thu được để đút lót (hối lộ) mua chuộc Tướng Lư Hán và các Tướng, Tá trong Ban Tham mưu quân Tầu tại Hà Nội cũng như tại các thành phố có quân Tầu đang trấn đóng, làm ngơ cho phe Việt Minh và Hồ Chí Minh mở các cuộc hành quân Cảnh sát tiêu diệt thành viên các Đảng phái Quốc gia không thuận theo Cộng sản, để chiếm độc quyền cai trị dân tộc Việt theo Chế độ Cộng sản Quốc tế do Liên Xô Viết Nga lãnh đạo. Ngày 28 tháng 1 năm 1946, quân đội Vương Quốc Anh (England) đại diện tổ chức Liên Hiệp Quốc, đổ bộ xuống Saigon để phụ trách việc giải giới quân Phiệt Nhật tại các vùng ở miền Nam Vĩ Tuyến 16 của Bán đảo Đông Dương. Quân Anh đã dung túng cho nhóm 200 quân Pháp tháp tùng để tái chiếm miền Nam Việt Nam, và ngày 4 tháng 2 năm 1946 Pháp đã công khai tuyên bố thành lập Chính quyền Hành chánh cai trị dưới danh xưng Nam Kỳ Tự Trị. [Trong thời Pháp thuộc từ trước năm 1945, Nam phần Việt Nam là một nhượng địa cho Pháp gọi là Cochinchine có hệ thống Hành chánh cai trị riêng biệt không lệ thuộc Hoàng triều An-Nam, y như trường hợp nhượng địa Hồng Kông của Trung Hoa cho Vương Quốc Anh vậy.] Cuộc tranh chấp Quốc Cộng bắt đầu nổ bùng và lan rộng. Các đảng phái Quốc gia chống lại chính sách bịp bợm và khủng bố của chính quyền Việt Minh, đòi hỏi phải có tổng tuyển cử công bằng. Chính quyền Hồ Chí Minh phải dời ngày tổng tuyển cử đến 6/1/1946. Sau đó là chính phủ Liên Hiệp được thành lập. Mọi chuyện tiến hành êm đẹp, Hồ Chí Minh (thuộc phe Việt Minh Cộng sản chiếm đa số trong Quốc hội) được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên Hiệp, cụ Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch, và cựu Hoàng Bảo Đại (ông vua thoái vị) được mời làm cố vấn cho Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Liên Hiệp. Trong cùng lúc đó, Hồ Chí Minh và nhóm Việt Minh ký Hiệp ước Sơ bộ với Saintenay (đại diện Pháp) vào lúc 4 giờ chiều ngày 6 tháng 3 năm 1946 tại căn nhà số 38 đường Lý Thái Tổ Hà Nội. Theo bản Hiệp ước, thì Chính phủ do Hồ Chí Minh lãnh đạo thoả thuận cho Pháp được tự do đổ quân chiếm đóng nhiều Tỉnh trọng yếu tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam (kể cả Thủ đô Hà Nội). Các đảng phái chính trị không Cộng sản trong Chính phủ Liên Hiệp tổ chức biểu tình chống đối, đã bị Hồ Chí Minh và phe Việt Minh gian manh xảo quyệt phao tin vu khống là các Đảng phái Quốc gia cấu kết với Pháp phản bội Tổ quốc, để công khai dùng Binh lực và Công An tổ chức các cuộc hành quân thẳng tay tiêu diệt các thành phần đối lập với Cộng sản, ngay tại Hà Nội và tại các Tỉnh khác mà quảng đại quần chúng sợ bị liên lụy không dám phản kháng. Cụ Nghuyễn Hải Thần đã được anh em Đồng Minh Hội đưa trốn thoát khỏi HàNội lên thị xã Lạng Sơn, và được anh em Phục Quốc Quân tại đây hộ tống trốn sang Tầu qua cửa Ải Nam Quan tại Đồng Đăng, bản thân người viết lúc đó là một thành viên trong đoàn hộ tống cụ Nguyễn Hải Thần sang Bình Tường bên đất Trung Hoa. Đêm 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh giữa quân Pháp và quân Việt Minh bùng nổ trên toàn lãnh thổ Việt Nam, vì tranh chấp thương thảo chia chác quyền cai trị đất nước giữa Việt Minh và Pháp không êm xuôi. Quân của Hồ Chí Minh thua phải bỏ Thủ đô Hà Nội và nhiểu Thành phố trọng yếu khác để rút vào rừng vùng Việt Bắc (gọi là Bưng). Trước khi rút vào bưng, Hồ Chí Minh ra lệnh bắt buộc nhân dân Việt Nam cả thành thị lẫn thôn quê, phải thực hiện chính sách “Tiêu thổ kháng chiến” (tức là phá bình địa tất cả các nhà gạch to lớn đồ sộ của tư nhân, cũng như cơ sở công cộng, Nhà Thờ, Đình, Chùa, đào đường đắp mô, phá cầu cống…) gọi là chiến lược chống Pháp tái xâm lăng. Nhưng mục đích thực sự sâu xa của việc làm này là, để thực hiện bước đầu tiên bần cùng vô sản hoá toàn dân, chuẩn bị xây dựng chế độ vô sản chuyên chính độc tài tàn bạo theo mô hình của Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Viết Nga chỉ đạo. Thời gian tiếp theo, dân chúng phải sống dưới cảnh một cổ 2 tròng, y như thời gian từ 1940 đến 1945 bị Pháp và Nhật song hành cai trị. Công việc làm ăn mưu sinh hàng ngày của dân chúng rất khổ cực, và luôn luôn lo lắng cho phần an ninh cá nhân và gia đình, vì hệ thống Công an của cả 2 bên Pháp và Việt Minh hoạt động khủng bố ngày đêm rất là tàn bạo. Mãi đến giữa năm 1947, những thành phần Nhân Sĩ Quốc Gia sống sót sau chiến dịch Cộng sản tiêu diệt hồi đầu năm 1946, ngồi lại với nhau tìm giải pháp giành lại Độc Lập cho đất nước bằng đường lối hoà bình, và đã quyết định mời Cựu Hoàng Bảo Đại đang lưu vong tại Hồng Kông, đứng ra thương thuyết với Chính phủ Pháp về việc tái thiết một Quốc Gia Việt Nam Độc lập Thống nhất trong Khối Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương. Năm 1946 sau khi ký Hiệp ước Sơ bộ tại Hà Nội với Saintenay, Hồ Chí Minh cũng đã sang Pháp thương thuyết nhưng đã bị thất bại ê chề. Ngày 19 tháng 8 năm 1947 tại Hồng Kông, Cựu Hoàng Bảo Đại chấp nhận lời kêu gọi đứng ra tiếp xúc với Chính phủ Pháp, và ngày 5 tháng 6 năm 1948, Hiệp định Hạ Long được ký kết giữa Thủ Tướng Chính phủ Trung Ương Nguyễn văn Xuân đại diện Việt Nam Thống Nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam, và ông Bollaert đại diện Chính phủ Pháp (trước sự chứng kiến của Cựu Hoàng Bảo Đại) trên chiến hạm Duguay Trouin của Hải quân Pháp đậu tại Vịnh Hạ Long, Bắc phần Việt Nam. Hiệp định công nhận Quốc Gia Việt Nam Độc Lập Thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam trong Khối Liên Hiệp Pháp, có Chính phủ độc lập và Quân đội riêng, cũng như có toàn quyền thiết lập bang giao với mọi nước trên toàn Thế giới ngoài nước Pháp, về Kinh tế và Khoa học Kỹ thuật thì ưu tiên giao dịch với Pháp và các nước thuộc Khối Liên Hiệp Pháp. (Khối Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương lúc đó gồm 3 nước Việt nam, Lào, Cao Miên, và tại Phi Châu gồm các nước Algéria, Tunisia, Maroc, và Sénégal.) Quốc Kỳ của Quốc Gia Việt Nam, được định lại là nền vàng với biểu trưng quẻ Càn mầu đỏ (3 vạch dài bằng nhau) nằm dọc chính giữa suốt bề dài của cờ, trong dân gian thường gọi nôm na là Cờ Vàng Ba Xọc Đỏ. Quốc Ca* là bài “Tiếng gọi Công dân”, nguyên là bài “Sinh viên hành khúc” nhạc của Lưu Hữu Phước, lời do một ủy ban sinh viên Đại học Hà Nội đặt gồm 3 Đoạn và 1 Điệp khúc. Bài “Sinh viên hành khúc” được các sinh viên trình bầy hợp ca lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 3 năm 1942, trong buổi trình diễn văn nghệ do sinh viên tổ chức tại Viện Đại Học Hà Nội, để lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện mà sinh viên Y Khoa Đại học Hà Nội đến thực tập. (*ghi chú: Quốc Ca chỉ dùng có Đoạn I của bài “Sinh viên hành khúc” mà thôi. Tên bài hát được đổi thành “Tiếng gọi Công dân”, và các từ “Sinh viên” trong bài ca đổi thành từ “Công dân”.) Đoạn I. Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi! Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối. Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên. Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn! Hồn thanh xuân như gương trong sáng, Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng! Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta, Dầu muôn trông gai vững lòng chi sá. Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương, Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường. (Điệp khúc) Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng! Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng! Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống! Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng! Đoạn II. Này sinh viên ơi! Dấu xưa vẫn còn chưa xoá! Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá! Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn, Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn. Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc Tuấn. Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam, Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám. Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên, Mong đến ngày vẻ vang ta thắp hương nguyền. (trở lại Điệp khúc)… Đoạn III. Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng! Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng! Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông, Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng. Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá. Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai, Hằng mong ta ra vững cầm tay lái. Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi, Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời. (trở lại Điệp khúc)… Vào tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh Pháp, một phong trào Thanh niên Tiền phong được tổ chức tại miền Nam Việt Nam, nhóm này lấy bài “Sinh viên hành khúc” dùng làm Đoàn Ca, nhưng đổi tên bài hát là “Tiếng gọi Thanh niên” và các từ “Sinh viên” được thay bằng từ “Thanh niên”. Sau khi Quốc Trưởng Bảo Đại bị ông Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, miền Nam Việt Nam thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà, Quốc hội Lập Hiến năm 1956 đã quyết định tiếp tục dùng bài “Tiếng gọi Công dân” làm Quốc Ca (nhưng lời ca được đổi lại như ghi dưới đây), và Quốc Kỳ cũng vẫn là Cờ Quẻ Càn của thời Quốc Gia Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại và hiện nay tập thể các Cộng Đồng Người Việt lưu vong tỵ nạn Cộng sản trên toàn Thế giới vẫn tôn trọng là Quốc Ca và Quốc Kỳ chính thống gốc Việt của mình: QUỐC CA VIỆT NAM CỘNG HÒA Này Công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng, Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên, Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dầu cho thây phơi trên gươm giáo, Thù nước lấy máu đào đem báo. Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy, Người Công dân luôn vững bền tâm trí. Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi, Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời. (Điệp khúc) Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ! Công dân ơi! Mau làm cho cõi bở! Thoát cơn tàn phá vẻ vang đời sống, Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng. Kể từ sau khi Đại diện Việt Nam và Đại diện Pháp ký Hiệp Ước Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948 trở đi, Quốc Gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại đứng đầu, được cả trăm nước trên toàn Thế giới lần lượt tuyên bố công nhận, và trao đổi cơ sở Ngoại Giao với hàng Đại Sứ. Trong khi đó Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh và phe Việt Minh cướp đoạt ôm giữ từ ngày 2 tháng 9 năm 1945 cho đến lúc đó tháng 6 năm 1948, vẫn không được một nước nào trên Thế giới nhìn nhận, kể cả Liên Xô Nga và các nước trong khối Cộng sản theo Nga. Quốc Trưởng Bảo Đại đã chính thức công khai gửi lời mời Hồ Chí Minh và nhóm Việt Minh hợp tác chấm dứt chiến tranh, để cùng toàn dân xây dựng kiến thiết đất nước mau hùng mạnh thịnh cường. Nhưng vì Hồ Chí Minh là đảng viên trung kiên của Quốc tế Cộng sản luôn luôn phải tuân hành lệnh của Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Viết Nga chỉ đạo, nên đã từ chối và tiếp tục được Nga Xô và Trung Cộng yểm trợ đẩy mạnh chiến tranh du kích khủng bố dân lành không cho làm ăn phát triển kinh tế, đốt làng xóm, phá hoại cầu đường giao thông, và các cơ sở công cộng tiện ích xã hội do Chính phủ Quốc Gia Việt Nam xây dựng để phục vụ quảng đại quần chúng tại các thành thị và thôn quê. 3.- ĐỂ KẾT LUẬN. Qua các sự kiện lược kể trên đây, chúng ta thấy rõ ràng nhóm Hồ Chí Minh và Việt Cộng không hề có công đấu tranh giành lại Độc lập Tự do, hay làm cách mạng để đem lại hạnh phúc ấm no cho Dân tộc và phồn vinh cho quê hương Việt Nam. Tất cả những gì Cộng sản khoe khoang vơ vào bấy lâu nay, đều là xảo trá láo khoét, trâng tráo vô liêm sỉ của nhóm mafia vong nô tay sai của Quốc tế Cộng sản nay đã tan rã. Sự thật bao giờ cũng vẫn là sự thật, cây kim dù bọc kỹ lưỡng đến đâu, lâu ngày cũng sẽ bị rỉ sét làm lòi ra giữa ánh sáng mặt trời. Thật đáng tiếc cho vận nước Việt Nam gặp thời bĩ cực, nếu không có bọn Quốc tế Cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo thúc đẩy yểm trợ cho tên tay sai đại gian manh xảo quyệt Hồ Chí Minh và nhóm đồng chí Việt Minh Cộng sản của hắn thực hiện cái gọi là cách mạng muà Thu 1945, thì nước Việt Nam Độc lập thống nhất từ ngày 11-3-1945 dưới quyền lãnh đạo của cựu Hoàng Bảo Đại có thể đã theo thể chế chính trị Quân chủ Lập hiến như Anh quốc, Nhật bản, Thái Lan…, thì dân tộc Việt Nam đâu có phải tốn bao nhiêu xương máu của nhiều thế hệ một cách vô ích và đất nước bị bom đạn tàn phá suốt mấy chục năm chiến tranh. Suốt 35 năm qua đất nước không còn chiến tranh nữa mà quảng đại quần chúng nhân dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục sống cuộc sống khổ cực như nô lệ thời Phong kiến Thực dân, các quyền tự do nhân bản của con người trong một nước độc lập không được tôn trọng bảo vệ dưới ách cai trị chuyên chính độc đảng tàn bạo vô nhân đạo của bè lũ độc tài Việt Cộng nay đã trở thành nhóm Phong kiến Thực dân đại tư bản Đỏ vong nô bán nước hại dân !!! Tất cả những điều trình bầy trên đây đều là những sự kiện thật đã xẩy ra, và là những dấu ấn được khắc ghi sâu đậm trong bộ não của người viết, theo thời gian chung sống hoà đồng cùng dân tộc đồng bào của mình ngay trên đất nước Việt Nam, chớ không hư cấu tưởng tượng cường điệu để tuyên truyền. Quý Vị độc giả có toàn quyền tự do phân định giả chơn, và tự quyết định nên đứng vào hàng ngũ những người đang tranh đấu hỗ trợ quảng đại quần chúng dân tộc Việt Nam ở trong nước, đẩy mạnh cuộc đấu tranh loại trừ bè lũ Việt Cộng gian xảo vô nhân đạo, để giành lại Tự do Dân chủ Nhân quyền và cuộc sống bình đẳng ấm no hạnh phúc cho toàn dân tộc Việt Nam, đã bị bọn bạo quyền này tước đoạt từ hơn nửa Thế kỷ nay, hay vì lợi ích riêng tư vị kỷ cá nhân cố tình giả ngộ ngu ngơ tiếp tục tin theo lời tuyên truyền xảo trá gian ngoan mời gọi nịnh vuốt ngọt ngào của bè lũ phản dân hại nước Cộng sản VN này, mà hoà hợp hoà giải quên đi quá khứ tàn bạo khát máu của chúng đối với dân tộc suốt hơn 60 năm qua, và làm ăn buôn bán cộng tác tiếp tay cho chúng có thêm thời cơ kéo dài cường quyền tiếp tục bán nước hại dân lâu thêm nữa. Little Saigon, Orange County, California. NGUYỄN-HUY HÙNG/K1VBQGVN. - cựu đảng viên Phục Quốc hoạt động tại Thị xã Lạng Sơn trong thập niên 1940. - cựu Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính Trị, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến, - cựu Tù nhân Chính trị, 13 năm khổ sai trong các trại tập trung của đảng Việt Cộng và nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975.

Đến nay thì chuyện nầy đã rõ ràng như ban ngày:Đảng CSVN đang sáp nhập đất nước vào nước Tàu! Posted by 1.54.31.194 via http://webwarper.net, created by AlgART: http://algart.net/ This is added while posting a message to avoid misusing the service

Đồng ý với lập luận của anh Kami là phải có hơn một đảng để xây dựng tự do dân chủ. Nhưng quan trọng là thời điểm nào, và làm như thế nào. Nên biết "Thiên thời, địa lợi, nhân hòa", thiếu một trong 3 nhân tố đó thì cũng chỉ như "Khổng Minh nhắm mắt phò Lưu Bị". Theo em, hiện tại chưa phải là thời điểm đa đảng phái. Vì sao? Thứ nhất: Đảng nào thì đảng, cũng phải cho dân biết họ là ai, họ có thể làm được gì cho nước, cho dân, họ dân chủ tự do như thế nào, và quan trọng là họ có thủ lĩnh lãnh đạo thực sự không? Muốn có thủ lĩnh thì chắc chắn đảng phải là một khối đoàn kết vững chắc. Hiện tại chưa thấy có đảng phái nào chứng tỏ được mình. Thứ hai: một đảng cũng có cái ưu việt của nó (vì ĐCS đã, đang sống sờ sờ trước mắt nhân dân - nhiều tiếng kêu, tiếng chửi bới ĐCS chính là nhiều người biết và quan tâm). Xin hãy bình tĩnh mà học tập Trung Quốc. Đừng vì căm thù TQ mà quên đi những điều mà ĐCS của họ làm được. ĐCS TQ rõ ràng đã thành công khi dẫn dắt và lãnh đạo hơn 1 tỷ người dân. Chuyện nghiêm túc. Hãy học những ưu việt của họ, học cách làm của họ. Nhất là thời điểm hiện nay, ĐCS TQ đang "thay máu", hãy xem cái cách họ thay đổi nhân sự của đảng như thế nào. Từ dó rút ra kinh nghiệm để áp dụng cho Việt Nam. Anh nói "ĐCSVN giờ chỉ còn cái tên" là đúng. Vì sao? ĐCS không có người lãnh đạo từ thời ông Nông Đức Mạnh được đưa lên làm TBT, và giờ là ông Nguyễn Phú trọng. Hai phe cánh chính trong ĐCS hiện nay có thể nhìn thấy là phe Nam Kỳ và Bắc Kỳ (chưa bàn đến Trung Kỳ, cũng là một lực lượng có sức mạnh đáng kể). Họ đưa 2 ông có tư tưởng trung dung, chẳng phe phái gì lên làm TBT - có thể nói giống như ông Bảo Đại hồi xưa. Ông Mạnh và ông Trọng chỉ là người đi phát ngôn, chẳng có quyền hành hay quyền lực gì. Quyền lực chính, thực sự nằm trong tay hai phe. Họ tranh giành quyền lực, đấu đá nhau vì lợi ích, bòn rút tài nguyên quốc gia mà không cần quan tâm đến hậu quả mà người dân phải gánh chịu (Bô-xít Tây Nguyên là một ví dụ), dân oan, dân khổ nhiều, tham nhũng tràn lan, quan tham, chính quyền ức hiếp người dân,... ĐCSVN không dẹp được, không trừ khử được, vì đảng không còn là một khối thống nhất, đoàn kết. Cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ phe cánh trong ĐCSVN hiện nay là kêu gọi Quân đội - lực lượng có sức mạnh, có quyền lực, hợp nhất lại thành một khối thì may ra mới có thể lãnh đạo và "thay máu" nhân sự nội bộ ĐCSVN, và xây dựng một chính phủ mới. Mặc dù điều này là khó khăn bởi bản thân ông Thanh - Bộ trưởng BQP cũng chính là một "Bảo Đại". Do đó, nếu có đa đảng vào thời điểm này thì chắc chắn xảy ra nội chiến, ít nhất là cánh quân Nam đánh nhau với quân Bắc để tranh đoạt và bảo vệ quyền lực cũng như lợi ích của họ. Như vậy, kẻ được lợi là ai? Không phải nhân dân, mà chính là ngoại bang. Ngoại bang có thể đục nước béo cò, đổ thêm dầu vào lửa, gây chia rẽ các phe cánh trong nước, thao túng chính trường. Hậu quả như thế nào thì xin vui lòng nhìn sang các nước như I-rắc, Li-bi,... Kết luận: Không nên (và rất khó) có đa đảng phái chính trị vào thời điểm hiện tại, có thể sau 5-10 năm nữa. Và nên biết, bất kỳ đảng phái nảo nổi lên lúc này đề sẽ bị các phe Nam, Bắc triệt hạ thẳng tay, bất chấp thủ đoạn. Việc cần làm là ủng hộ, xây dựng một lực lượng mạnh để thống nhất ĐCSVN, từ đó xây dựng một chính phủ mới quan tâm đến dân hơn.

Anh Kami nên thông cảm cho các cụ. Các cụ chính là những người đã sống, chiến đấu, hy sinh xương máu vì ĐCSVN, vì lý tưởng của đảng. Các cụ coi ĐCSVN như là người cha thứ hai, nên việc bênh ĐCSVN là điều bình thường. Niềm tin của các cụ dành cho ĐCS vẫn còn nhưng chỉ là niềm tin (hyvọng), chứ thực sự không còn là niềm tin tuyệt đối như thời trước nữa đâu. Một ví dụ, các cụ đi lĩnh lương hưu hàng tháng vẫn phải chịu sự cửa quyền hách dịch của những người mà các cụ gọi là "lũ trẻ con" đang ngồi trên ghế công quyền. Các cụ chẳng biết kêu ai, chỉ tự nói với nhau, vì nếu có phản ảnh lên cấp trên, cấp lãnh đạo cao nhất rồi cũng sẽ bị nói sau lưng "các cụ già rồi đâm ra lẩm cẩm"! Ở trong nhà con xung khắc với cha mẹ, nhưng ra ngoài xã hội, nếu có kẻ nào nói xấu cha mẹ mình thì chắc bị ném đá ngay.