You are here

Các đảng phái chính trị Việt Nam trước biến cố 19/8/1945 (tiếp theo và hết)

Ảnh của nguyenvubinh

     ...

     2/ Các chính đảng quốc gia không có được sự hậu thuẫn của một lực lượng có tiềm lực với sự chính đáng, chính danh

     Thông thường, các đảng chính trị thường phải được sự hậu thuẫn của một lực lượng, một nhóm tài phiệt nào đó về các mặt kinh tế, tài chính. Các chính đảng quốc gia khi đó, phần lớn không có một sự hậu thuẫn nào khả dĩ có thể làm điểm tựa cho việc phát triển lực lượng cũng như ảnh hưởng trong dân chúng. Một số đảng phái đã dựa vào ảnh hưởng của Nhật để hậu thuẫn cho mình, nhưng Nhật cũng lại là một đế quốc đi xâm lược nên việc này lợi bất cập hại, không được lòng dân chúng. Một vài chính đảng khác lại dựa vào quân đội Tưởng Giới Thạch, cũng lại là một sự bất đắc dĩ và không thể có được tính chính danh. Một lý do quan trọng nữa khiến cho việc tìm kiếm hậu thuẫn của các chính đảng là việc vô cùng khó khăn. Đó là các chính đảng thực chất là tập hợp của những người yêu nước để giải phóng dân tộc, đối diện với nhà nước bảo hộ Pháp luôn có sự đàn áp và ngăn trở, các lực lượng hậu thuẫn không dám đương đầu, đối đầu với những sự trừng phạt của nhà nước bảo hộ, nên việc này đi vào bế tắc, chưa có lời giải đáp.

     3/ Phần lớn các chính đảng quốc gia chưa phát triển được trong giới cần lao, nông dân và công nhân, những người cùng khổ trong xã hội đương thời

     Việc phát triển đảng viên, cảm tình viên của các chính đảng quốc gia phần lớn mới dừng lại ở các tầng lớp tinh hoa, trí thức và nhân sĩ thành thị. Điều này hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan đem lại. Trước hết, chỉ có những người có chữ, có học mới có thể đọc được, có đủ nhận thức để hiểu được một cách thức tổ chức, các tư tưởng mới, tiến bộ của nhân loại. Mặt khác, các chính đảng quốc gia cũng chưa đủ trình độ, khả năng và điều kiện để có thể diễn đạt đơn giản, nôm na cho người dân cần lao hiểu được. Những trí thức lớn, những nhà lãnh đạo các chính đảng quốc gia cũng đều xuất thân khoa bảng, danh gia vọng tộc và có nhân cách lớn. Họ không thể dùng những chiêu bài bịp bợm để thu hút giới cần lao như cách đảng cộng sản đã làm. Ảnh hưởng và sự kết nối của các đảng phái quốc gia trong giới cần lao cũng chưa có được bao nhiêu, tất cả đều còn trong giai đoạn phát triển ban đầu.

     Với những con người hiện có, trong điều kiện thực tế một đất nước bị đô hộ, được tiếp xúc với những trào lưu tư tưởng tiến bộ, cũng như mô hình chính trị dân chủ phương tây, các chính đảng quốc gia cũng đã cố gắng làm tốt nhất những gì có thể. Nhưng như vậy là chưa đủ để có thể ngăn cản một tổ chức có kỷ luật chặt chẽ, sắt máu, lại được hậu thuẫn bởi một tổ chức quốc tế hùng mạnh, sử dụng khủng bố và những thủ đoạn bất minh để cướp chính quyền trong thời điểm Việt Nam trải qua bước ngoặt của sự đô hộ, chiếm đóng.

     III/ Đảng Cộng sản Việt Nam

     Có thể nói, đảng cộng sản là đảng duy nhất ở Việt Nam đã không mắc phải các khuyết điểm của các chính đảng quốc gia nêu trên. Nhưng điều đó không phải là điểm đáng tự hào của một chính đảng. Như trên đã đề cập, các chính đảng quốc gia, ngoài khó khăn về hoàn cảnh, bối cảnh xã hội, những người lãnh đạo đều là những con người có nhân cách, họ đã không vứt bỏ đạo đức để sử dụng các chiêu bài thu hút người dân, và không sử dụng khủng bố, bạo lực như một phương thức hoạt động của tổ chức. Những ưu trội mà đảng cộng sản có được so với các chính đảng quốc gia đều dựa trên những phương pháp thiếu lương thiện, thủ đoạn bất minh và tàn ác.

     Chúng ta cần đi vào tìm hiểu gốc rễ, phương thức hoạt động và quá trình phát triển lực lượng của tổ chức này.

     1/ Đảng cộng sản Việt Nam là một chi nhánh của Quốc tế Cộng sản, một tổ chức hùng mạnh có mục đích khuynh đảo thế giới

     Đây là lý do quan trọng bậc nhất khiến cho không một chính đảng quốc gia nào ở Việt Nam đầu thế kỷ XX có thể so sánh được với đảng cộng sản. Quốc tế Cộng sản khi đó đã là một tổ chức hùng mạnh, có cơ sở ở nhiều quốc gia, và có nền tảng là nước Nga Xô Viết. Mục đích của Quốc tế Cộng sản là thống trị nhân loại, nên nó hậu thuẫn cho tất cả các chi nhánh trên thế giới, và làm thành một hệ thống đối chọi với phần còn lại của thế giới. Sự hậu thuẫn của Quốc tế Cộng sản đối với đảng cộng sản Việt Nam là toàn diện, nhưng quan trọng nhất có mấy phương diện sau.

     - Vấn đề lý luận, tuyên truyền. Đây là vấn đề tối quan trọng của vận động quần chúng, phát triển đảng viên và cảm tình đảng. Quốc tế Cộng sản có cả một hệ thống tư tưởng, lý luận đi cùng nhưng điều quan trọng nhất, do có những nhà nghiên cứu, giới khoa học đã phổ thông hóa, diễn giải chủ thuyết cộng sản phù hợp và đánh trúng tâm lý của giai cấp cần lao, những người nông dân và công nhân, ví dụ “người cày có ruộng”, “thế giới đại đồng”...

     - Đào tạo cán bộ lãnh đạo. Tất cả đội ngũ cán cộ cao cấp, cốt cán của đảng cộng sản đều được đào tạo bài bản, cùng một nội dung, phương pháp. Những kiến thức và kinh nghiệm này (thường được học ở Đại học Phương Đông, Nga) sau này đều được chia sẻ xuống các cấp lãnh đạo thấp hơn. Như vậy, cùng với vấn đề lý luận, tuyên truyền và đào tạo cán bộ lãnh đạo, đảng cộng sản chứng tỏ là một tổ chức có hệ thống, bài bản và chặt chẽ.

     - Vấn đề tài chính, hậu cần. Đây không phải là vấn để lớn nhất, hoặc quan trọng nhất trong sự hậu thuẫn của Quốc tế Cộng sản. Nhưng khi có sự bảo đảm cơ bản, hoặc bảo đảm tài chính cho những nhiệm vụ cơ bản cũng là một thuận lợi ít có đảng phái nào có được. Ngoài ra, đảng cộng sản Việt Nam còn được sự quan tâm, hỗ trợ trực tiếp của đảng cộng sản Trung Quốc, một phân nhánh lớn của Quốc tế Cộng sản ở ngay sát Việt Nam.

     2/ Phương thức hoạt động kiểu hội kín, sử dụng khủng bố, bạo lực và mọi thủ đoạn để đạt mục đích

     Điểm đặc biệt nhất, làm thành sự khác biệt lớn nhất, cũng như khả năng thành công cao của đảng cộng sản chính là phương thức hoạt động, sử dụng khủng bố, bạo lực đối với kẻ thù, và ngay đối với đồng chí của mình, tức là sử dụng khủng bố trong nội bộ tổ chức. Ngay trong nội bộ Quốc tế Cộng sản, và các đảng cộng sản ở các quốc gia, không có quy định nào cấm sử dụng khủng bố, bạo lực đối với đồng chí, trong nội bộ. Chính vì vậy mà việc lựa chọn thủ lĩnh của quốc tế cộng sản, cũng như các đảng cộng sản là quá trình chọn lọc tự nhiên. Tức là ai có khả năng có thể triệt hạ được đồng chí, đối thủ, dùng bạo lực khủng bố để chiếm và duy trì quyền lực trong tổ chức đều được hoan nghênh. Chính vì cách thức lựa chọn thủ lĩnh như vậy, những kẻ lão luyện, có đủ sự tàn bạo và thủ đoạn đối với đồng chí của mình, mới có thể sử dụng nhuần nhuyễn với kẻ thù bên ngoài, với đối lập và nhân dân.

     Việc sử dụng phương thức khủng bố, bạo lực và các thủ đoạn bất minh rất phù hợp với hình thức hoạt động bí mật, bán công khai. Trong giai đoạn Việt Nam đang chịu sự đô hộ, nhà cầm quyền triệt hạ và ngăn cản hoạt động của các đảng phái, tổ chức có mục đích giải phóng dân tộc, chính là môi trường để đảng cộng sản hoạt động và phát triển lực lượng.

     3/ Quá trình hoạt động liên tục, trải qua đấu tranh, rèn luyện và thử thách

     Với quy mô trải rộng trên cả nước, lại có sự hậu thuẫn của Quốc tế Cộng sản, cùng với hoạt động bài bản, hệ thống, đảng cộng sản đã có 15 năm liên tục hoạt động tính đến năm 1945. Trong thời gian đó, đảng cộng sản đã thực hiện nhiều phong trào, nhiều hoạt động đấu tranh cho công nhân và nông dân cả nước. Đáng chú ý nhất, đó là cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh (1930-1931) và Phong trào dân chủ Đông Dương 1936-1939. Hai sự kiện này đã cho thấy thực lực của đảng cộng sản: sự kiện đầu cho thấy đảng cộng sản đã thâm nhập sâu vào giai cấp công nhân và nông dân để có thể dấy lên một cuộc khởi nghĩa. Sự kiện sau cho thấy mối liên hệ, liên kết và sự phối hợp trong nước, quốc tế cũng như phối kết hợp các mặt đấu tranh toàn diện. Tính đến năm 1945, đảng cộng sản đã có trên 5000 đảng viên, chưa kể cảm tình đảng và quần chúng ảnh hưởng.

     Một hoạt động xuyên suốt tố cáo thủ đoạn và sự tàn bạo của đảng cộng sản. Đó là, trong cùng lúc đấu tranh với nhà nước thực dân đô hộ, đảng cộng sản đã thực hiện việc tiêu diệt các đảng phái khác không phải cộng sản. Việc thủ tiêu bí mật các đảng viên chính đảng khác diễn ra liên tục, thường xuyên. Đồng thời, những người yêu nước đầu thế kỷ XX hoạt động ở Trung Quốc không phải cộng sản về nước đều bị cộng sản tố cáo với nhà cầm quyền để bắt giam, thủ tiêu. Sự kiện Hồ Chí Minh bán Phan Bội Châu cho Pháp đã nói lên toàn bộ thủ đoạn và sự đê hèn của đảng cộng sản.

     Toàn bộ hoạt động của đảng cộng sản được thúc đẩy bởi lòng yêu nước của những người trí thức, người công nhân và nông dân, mà tuyệt đại đã số đều tin rằng, mục đích giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội tốt đẹp, có thể biện minh cho phương pháp tàn bạo, sai lầm và vô đạo đức. Họ đã không thể ngờ rằng, thay vì tạo ra một thiên đường hạ giới, họ đã mở cửa địa ngục cho toàn thể nhân dân Việt Nam và đất nước của họ./.

Hà Nội, ngày 21/3/2019

N.V.B