You are here

40 năm sau cuộc chiến biên giới Việt-Trung-tiếp tục những sai lầm

Ảnh của songchi

Song Chi.

40 năm đã trôi qua kể từ khi cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung xảy ra vào ngày 17.2.1979. Cuộc chiến tuy chỉ kéo dài có 1 tháng, nhưng trên thực tế thì xung đột giữa 2 bên vẫn tiếp tục đến tận 10 năm sau.

Điều đáng nói hơn là sau 40 năm nhìn lại, đảng cộng sản VN đã chứng tỏ họ không học được gì từ bài học lịch sử qua cuộc chiến này. Trái lại, họ lại càng mắc nhiều sai lầm hơn.

1. Vội vàng bắt tay với cựu thù trong tư thế yếu.

Đó là sai lầm nghiêm trọng nhất. Sau khi Liên Xô và khối XHCN Đông Âu tan rã, quá lo sợ trước sự tồn tại của phe XHCN trên thế giới nói chung và tương lai của đảng cộng sản VN nói riêng, Hà Nội đã nhanh chóng quay trở lại làm thân với Bắc Kinh trong tư thế quỵ lụy. Xuất phát điểm của quyết định này, cũng tương tự như trong mọi quyết định lớn có liên quan đến vận mệnh đất nước, dân tộc khác của đảng cộng sản VN, đó là luôn luôn đặt quyền lợi của đảng lên trên lợi ích của đất nước, dân tộc.

Cho tới nay người dân VN vẫn chưa hề được biết nội dung Hội nghị Thành Đô (hay gọi là Mật ước Thành Đô) ngày 3-4.9.1990 về việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước là như thế nào, nhưng rõ ràng những điều kiện, thỏa thuận trong đó đã dẫn tới sự thay đổi trong đối nội và đối ngoại, không chỉ giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà còn giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước trong khu vực, đồng thời cũng dẫn tới những hệ lụy lâu dài mà cho tới nay chúng ta có thể cảm nhận được.

Sau khi bắt tay với kẻ thù xong, đảng và nhà nước cộng sản VN lại tiếp tục mất cảnh giác, mở rộng cửa đối với Trung Cộng trong mọi lĩnh vực. Và sau 40 năm thì chúng ta có thể nhìn thấy sự hiện diện cũng như mức kiểm soát, ảnh hưởng của Trung Cộng đối với VN trên cả hai nghĩa bóng và nghĩa đen, từ trên khắp lãnh thổ lãnh hải cho tới hậu trường chính trị ở Ba Đình, từ ngoại giao, chính trị, kinh tế cho tới an ninh, tình báo, văn hóa, tinh thần.

2. “Muốn có hòa bình thì hãy chuẩn bị chiến tranh”.

Pháp đến rồi đi, Mỹ đến rồi đi, Pháp hay Mỹ chẳng lấy của VN một rẻo đất, ngược lại với Pháp, với Mỹ, VN có mất mà có được- mất bao nhiêu xương máu không tính nổi nhưng cũng nhận ở khía cạnh văn hóa, văn minh. Còn Trung Quốc thì mãi mãi ở bên cạnh, là kẻ thù từ nghìn năm trước, cho tới bây giờ vẫn luôn luôn là mối đe dọa lớn nhất, và dù chơi với Tàu hay đối đầu với Tàu thì VN cũng chỉ mất và mất. Mất đất, mất đảo, biển, kể cả môi trường sống bị đầu độc cũng là những cái thấy được, nhưng mất về mặt chủ quyền, độc lập cho tới văn hóa, tâm linh mới là cái nguy hiểm hơn nhiều. Đáng tiếc là đối với Trung Cộng, đảng cộng sản VN thay vì cảnh giác, thoát ra thì lại càng lún sâu vào vòng lệ thuộc với Tàu. Muốn có hòa bình thì phải chuẩn bị cho chiến tranh và họ đã không làm được như thế.

Về phía Trung Cộng đã kịp rút ra bài học về sự yếu kém, lạc hậu của quân đội, vũ khí và kinh nghiệm chiến đấu của quân lính họ qua cuộc chiến tranh biên giới với VN, từ đó ra sức đầu tư cho quân sự, quốc phòng. Bắc Kinh đã tăng ngân sách quốc phòng lên mức 2 con số trong một thập kỷ, sau đó giảm xuống còn một con số và giờ đây lại tăng trở lại. Hiện nay ngân sách đầu tư cho quốc phòng của Trung Cộng chỉ thua có Hoa Kỳ. (“US, China and Saudi Arabia top list of military spending”, Aljazeera, “US remains top military spender, SIPRI reports”, Defense News).

VN tất nhiên không thể so sánh vì đất nước ta nghèo hơn nhiều, nhưng nếu không bị mất một số tiền đáng kể hàng năm vì nạn tham nhũng, làm ăn lãng phí, kém hiệu quả thì cũng có thể tập trung đầu tư nhiều hơn vào một vài lĩnh vực mũi nhọn, nhất là hải quân.

Quan trọng hơn là xây dựng tinh thần chiến đấu cho quân đội. So với thời đánh Mỹ đánh Pháp, tinh thần chiến đấu của quân đội VN bây giờ chắc chắn thua xa vì nhiều lý do: không còn lý tưởng, việc quân đội được phép làm kinh tế khiến ai cũng có tài sản và sợ mất, nhất là tầng lớp tướng tá, quan chức cấp cao, có quá nhiều thứ để họ không muốn mất và do đó, khiến họ bạc nhược, sợ hãi chiến tranh.

40 năm trước Trung Cộng tuy đông hơn gấp bội mà không dễ gì thắng được VN, nhưng bây giờ thì người viết bài này hoàn toàn không còn chắc về điều đó nữa.

3. Tự làm yếu mình về mặt tinh thần.

Trong hai cuộc chiến tranh đánh Pháp, đánh Mỹ, người cộng sản lúc đó có thể bị xem là sắt máu nhưng không ai nói họ hèn, họ dường như không biết sợ là gì. Còn bây giờ trước Trung Cộng, chính họ luôn luôn tự hù dọa mình với những suy nghĩ, lập luận kiểu như Trung Quốc mạnh như thế, làm sao đánh nổi, hoặc định mệnh buộc VN là hàng xóm láng giềng của Trung Quốc, không thể bê nước mình đi chỗ khác thì phải sống hòa thuận với Trung Quốc thôi v.v…Đó là với chính quan chức, những người lãnh đạo trong bộ máy cầm quyền từ trung ương đến địa phương.

Còn đối với người dân, việc không dám nhắc đến cuộc chiến tranh biên giới trong suốt một thời gian dài khiến cho giới trẻ VN không thực sự hiểu được chuyện gì đã xảy ra, việc ngăn chặn người dân quan tâm đến chính trị nói chung và đàn áp, sách nhiễu không cho người dân được phép bộc lộ lòng yêu nước…mỗi khi có “yếu tố Trung Quốc” nói riêng, đã vô hình chung làm nhụt đi lòng yêu nước, tinh thần bất khuất quật cường của nhân dân-một vũ khí lợi hại của bất cứ nhà cầm quyền nào nếu muốn đương đầu với thế lực ngoại bang.

Đó là chưa nói đến chuyện cần phải tích cực hòa giải, hòa hợp với người miền Nam, hàn gắn lại những vết thương chiến tranh vẫn chưa lành do cuộc chiến Việt Nam và do những chính sách hẹp hòi, thiển cận của "bên thắng cuộc" đã gây nên, xóa bỏ những chính sách có phần phân biệt vùng miền, để tạo nên khối đoàn kết dân tộc vững mạnh hơn thì càng có thêm sức mạnh đối phó bên ngoài.

4. Bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội “thoát Trung”, bao nhiêu cơ hội kết bạn với các nước dân chủ, tiến bộ, giàu mạnh trên thế giới để có bạn bè, đồng minh hỗ trợ khi cần thiết.

Chính sách “ba không” trong quốc phòng của VN (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia) tưởng là khôn ngoan, thật ra lại có hại cho VN trong bối cảnh Trung Cộng ngày càng mạnh, ngày càng có sức ảnh hưởng trên thế giới cũng như là mối đe dọa thường trực đối với VN và các nước trong khu vực. VN là một nước nghèo và cần các nước giàu mạnh hơn là họ cần VN, nếu VN tỏ ra “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào’ thì cũng chẳng nước nào buộc phải liên kết với VN cả.

5. Không nên giải quyết mọi vấn đề với Trung Quốc theo kiểu song phương.

Trung Cộng luôn luôn muốn ép VN giải quyết mọi mâu thuẫn, bất đồng giữa 2 bên theo kiểu song phương để dễ bắt nạt. Điều phải làm là quốc tế hoá để giải quyết các mối xung đột, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế. Nhưng VN lại không làm như vậy.

6. Muốn có một nền độc lập lâu dài, muốn không bị láng giềng to mạnh ức hiếp thì phải tự lực xây dựng đất nước giàu mạnh.

Sau 40 năm, nói gì thì nói, đảng cộng sản Trung Quốc đã xây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc về kinh tế và quân sự, vị trí và tiếng nói của Trung Cộng đã khác xưa nhiều, trong khi đó thì VN, dưới sự lãnh đạo bất tài của đảng cộng sản vẫn cứ là một nước nghèo, chẳng để lại được gì cho các thế hệ tương lại ngoài những món nợ chồng chất, tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề…

Câu hỏi cuối cùng là bao giờ thì những sai lầm này sẽ được khắc phục?