You are here

Những cuộc di dân lặng lẽ (tiếp theo)

Ảnh của nguyenvubinh

     …

     Như vậy, bối cảnh của đất nước trong khoảng 25-30 năm trở lại đây chính là việc đảng đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam cởi trói phần nào nền kinh tế, và các lĩnh vực khác, đổi lấy sự hội nhập và các khoản vay, viện trợ để duy trì chế độ độc tài toàn trị, duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Đồng thời, các thế hệ lãnh đạo đảng, nhà nước cũng như quan chức trong bộ máy đã tạo ra một bộ máy tham nhũng khủng khiếp, vơ vét hàng trăm tỷ đô la dẫn tới số nợ khổng lồ cũng như sự phá hủy hoàn toàn môi trường sống, nền tảng đạo đức, văn hóa xã hội của đất nước.

     II/ Nguyên nhân của những cuộc ra đi

     Để tìm hiểu nguyên nhân người dân ra đi, từ bỏ quê hương, đất nước để tới sống ở một nơi xa lạ, một quốc gia khác, chúng ta cần hiểu tâm lý của người dân. Đối với người dân, họ không quan tâm tới chỉ số tăng trưởng kinh tế, không quan tâm tới thu nhập bình quân đầu người. Họ chỉ quan tâm tới công việc, nghề nghiệp, thu nhập, mức sống và cảm nhận thực tế cuộc sống với những lợi ích sát sườn của mình. Mặt khác, chúng ta tìm hiểu môi trường học tập, làm việc, công tác để từ đó tìm ra nguyên nhân của việc người dân không còn thiết tha với cuộc sống tại chính quê hương mình. Tựu trung lại có những lý do sau đây.

     1/ Thu nhập và mức sống của người dân

     Thu nhập và mức sống của người dân là vấn đề quan tâm hàng đầu, là nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đi của người dân. Không một người dân nào không cảm nhận sự thay đổi về thu nhập sau công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, mức tăng về thu nhập của người dân đã không theo kịp với những chi phí và nhu cầu tiêu dùng của người dân dẫn tới cuộc sống khổ sở, vật lộn mưu sinh mà tuyệt đại đa số người dân phải đối mặt. Công cuộc đổi mới, phúc lợi của tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thu nhập của người dân, nhưng đồng thời cũng xã hội hóa những lĩnh vực quan trọng như y tế, giáo dục, vv… Việc xã hội hóa là cần thiết nhưng nó đã không có được cơ chế minh bạch, kiểm tra và giám sát của người dân. Cùng với tệ nạn sách nhiễu, lạm thu và tham nhũng, hối lộ, người dân đã bước vào một chu kỳ tiêu dùng mới với những khoản đóng góp, phí, lệ phí và rất nhiều khoản chi tiêu khác. Niềm vui của việc tăng thu nhập không thể bù đắp được nỗi lo cho những khoản chi phí mới phát sinh. Đối với những người công chức, viên chức làm công ăn lương, với công nhân và nông dân, tuyệt đại đa số đều rơi vào tình cảnh thiếu trước hụt sau và hoàn toàn không có tương lai đối với cuộc sống hiện tại.

     2/ Môi trường kinh doanh

     Khi công cuộc đổi mới được khởi phát, một phần do sự hồ hởi của tình hình, một phần các cơ quan chưa kịp xây dựng các quy định, quy tắc về môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp và doanh nhân còn có được môi trường thông thoáng và thuận lợi để kinh doanh. Nhưng càng ngày, các quy định, quy tắc, luật lệ cùng với sự sách nhiễu của các cơ quan quản lý, các ban ngành liên quan, môi trường kinh doanh ngày càng đông cứng và khó khăn cho tất cả các doanh nghiệp. Mặt khác, việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng tạo ra vô vàn khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, viêc thị trường bất động sản được hình thành và hoạt động không minh bạch đã đẩy giá nhà đất, giá nhà xưởng, giá thuê văn phòng lên mức phi lý, khiến cho việc kinh doanh bị méo mó, đẩy giá thành các mặt hàng và dịch vụ lên đã làm cho các doanh nghiệp không thể tồn tại. Chưa kể việc sách nhiễu của các cơ quan chính quyền, đoàn thể địa phương địa bàn nơi doanh nghiệp hoạt đông. Tổng hợp tất cả các khó khăn mà doanh nghiệp phải đối diên, chỉ có những doanh nghiệp nào có mức lợi nhuận gấp 4-5 lần chi phí mới có thể tồn tại được trong môi trường hiện nay. Như vậy, môi trường kinh doanh ở Việt Nam hiện nay đang tiêu diệt các doanh nghiệp, và không có hi vọng nào khi nhà nước không thực tâm cải thiện môi trường kinh doanh.

     3/ Môi trường công tác

    Môi trường công tác cũng là một trong những lý do để người dân không muốn gắn bó với quê hương đất nước mình. Nói về môi trường công tác có ba vấn đề cần quan tâm, đó là vấn đề tuyển dụng, thi thố khả năng (cống hiến) và đãi ngộ. Đối với vấn đề tuyển dụng, xin việc làm hoàn toàn không phụ thuộc khả năng, năng lực mà phụ thuộc vào mối quan hệ, vào đút lót, mua suất biên chế. Ở Việt Nam hiện nay, không có một suất biên chế nào mà không có một giá cả nhất định. Chỉ có một số rất ít con cháu, thân nhân của lãnh đạo trực tiếp xin việc mà không mất tiền. Khi đã vào làm việc, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào năng lực và kết quả công việc, mà bằng mối quan hệ, bằng sự luồn lọt, nịnh hót nên cũng triệt tiêu động lực cống hiến của những người có tâm huyết. Vấn đề đãi ngộ cũng không khác hai lĩnh vực kia, đó là đồng lương rẻ mạt và sự bất bình đẳng, bất công bằng. Với mức lương rẻ mạt, lại phải bỏ tiền mua suất biên chế, xin việc nên những cán bộ, công chức tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để sách nhiễu, lạm thu, tham nhũng nhằm thu hồi số tiền đã bỏ ra cũng như kiếm chác cho bản thân và có tiền mua quan, bán tước. Như vậy, môi trường công tác đã làm tha hóa con người, làm con người biến chất, bán lương tâm lấy vinh hoa phú quý.

     4/ Môi trường sống

     Môi trường sống cũng là mối quan tâm lớn của người dân hiện nay. Có ba lĩnh vực cần quan tâm.

     - Môi trường sống tự nhiên. Môi trường sống tự nhiên bao gồm hai yếu tố quan trọng, nguồn không khí và nguồn nước. Cả hai vấn đề này ở Việt Nam hiện nay đều bị ô nhiễm nặng nề. Môi trường không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn khói bụi và các chất ô nhiễm đã vượt rất nhiều lần mức độ cho phép. Các chỉ số của không khí bị ô nhiễm đều thuộc tốp đầu thế giới. Môi trường nước cũng đang trong tình trạng tương tự, phần lớn các con sông ở Việt Nam đều ô nhiễm khủng khiếp, một số là những con sông chết. Đặc biệt, môi trường biển bốn tỉnh miền trung vừa bị hủy hoại bởi nhà máy thép Formosa, biển đã chết ở bốn tỉnh miền trung. Trong số những điều mà cộng sản hủy hoại, thì môi trường luôn đứng đầu cả ở Việt Nam và Trung Quốc…

     (còn nữa)

Hà Nội, ngày 22/02/2018

N.V.B