You are here

Công cuộc vận động dân chủ ở Việt Nam (Bài 2: Thực trạng Việt Nam)

Ảnh của nguyenvubinh

     Nhận định về thực trạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một việc rất khó. Đối với những người bàng quan, không hiểu về cộng sản và dòng chảy của cộng sản Việt Nam thì thực tế hiện nay chỉ là những khó khăn tạm thời, hoặc đó là sự “hết đà” trong đổi mới...nếu như có một sự đổi mới, cải cách  nào đó, thì tình hình sẽ thay đổi và mọi cái sẽ lại tốt đẹp. Nhưng nếu nhìn nhận Việt Nam là một chế độ cộng sản, sau sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu, có sự điều chỉnh để tồn tại và duy trì chế độ cộng sản toàn trị thì chúng ta sẽ có một kết luận khác về thực trạng Việt Nam hiện nay. Có thể nói rằng, chế độ cộng sản độc tài toàn trị ở Việt Nam đã đi hết chu kỳ tồn tại của nó. Tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam hiện nay đều chỉ ra rằng, chế độ này đã chết, nhưng chưa được công bố và mang đi chôn. Nó cần một biến cố để khẳng định và công nhận sự kết thúc của chế độ. Biến cố đó sẽ đến trong những ngày tháng sắp tới.

     Nhưng trước hết, cần phải nói rõ, chế độ cộng sản hiện nay đã chết là theo nghĩa bóng, chết về động lực. Chỉ khi xảy ra biến cố làm sụp đổ chế độ, lúc đó mới là chết theo nghĩa đen. Và tôi mạnh dạn dùng từ chết bởi vì thời điểm xảy ra biến cố đã rất gần, cận kề trong tương lai.

     Vấn đề cơ bản và quan trọng nhất, là vấn đề kinh tế. Sau khi cơ chế kế hoạch hóa phá sản, nhà cầm quyền Việt Nam đã thực hiện chính sách đổi mới kinh tế. Nếu chỉ nhìn vào văn kiện đại hội đảng VI của đảng cộng sản Việt Nam, có thể nói, đó là bước ngoặt đáng hoan nghênh mà đảng cộng sản muốn thực hiện. Tuy nhiên, số nguời hiểu được và ủng hộ không đủ để chính sách đổi mới trở thành trào lưu thực chất. Nó nhanh chóng chuyển thành thủ thuật, thủ đoạn để duy trì chế độ độc đảng, độc tài toàn trị và cơ hội trục lợi lớn của bộ máy cầm quyền. Nền kinh tế Việt Nam, về tuyên truyền là theo kinh tế thị trường nhưng đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý của kinh tế thị trường. Vi phạm nghiêm trọng và dễ thấy nhất là vi phạm về quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quan trọng nhất là sỡ hữu tư nhân về đất đai. Từ vi phạm sở hữu tư nhân về đất đai, đã làm biến dạng toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và cả nền kinh tế. Sau này vi phạm sở hữu tư nhân về đất đai còn gây ra hệ lụy khủng khiếp về mặt xã hội (cướp đất – dân oan). Quy luật cung cầu, thị trường quyết định giá cả hàng hóa cũng bị vi phạm khi giá những mặt hàng thiết yếu như điện, nước, xăng dầu do nhà nước quy định...cấu trúc của nền kinh tế, với 60-70% nguồn lực ưu tiên dành cho doanh nghiệp nhà nước, mà hiệu quả đóng góp chỉ được 30-40% giá trị tổng sản lượng. Doanh nghiệp tư nhân bị o ép, hắt hủi đầu tư chỉ 30-40% nhưng làm ra 60-70% GDP. Tóm lại, với tất cả những vi phạm nghiêm trọng về nguyên lý kinh tế thị trường, về cơ chế cấu trúc, về chính sách nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong trạng thái tan hoang, nợ gấp đôi GDP, giá trị làm ra không đủ cho tiêu dùng của quốc gia trong thời điểm hiện tại. Điều nguy ngập nhất, và cơ sở để nói, nền kinh tế Việt Nam đã chết, chính là động cơ lợi nhuận. Hiện nay, có thể khẳng định, hầu như không một ngành nghề nào, không một doanh nghiệp nào làm ăn có lãi trong cơ chế và môi trường này. Người ta tính toán rằng, nếu một doanh nghiệp nào làm ra, hoặc kinh doanh một sản phẩm, thì chỉ khi có lãi gấp 4-5 lần giá trị sản phẩm (tức là làm ra, hoặc mua 1 bán 4-5) mới hi vọng có lãi, tồn tại được trong môi trường ở Việt Nam. Chính vì phải chi phí cho các yếu tố phi lý, cho luật, lệ và tham nhũng nên doanh nghiệp hiện nay không thể có được lợi nhuận. Động cơ lợi nhuận đã bị triệt tiêu, và nền kinh tế chết ở điểm này. Người dân đã không bỏ vốn ra để sản xuất kinh doanh nữa.

     Về chính trị - xã hội, nhà cầm quyền Việt nam vẫn giữ nguyên độc quyền lãnh đạo, vẫn ngăn cản mọi quyền công dân cơ bản của con người như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do biểu tình, tự do lập hội. Đồng thời, do lệ thuộc Trung Quốc trên nhiều khía cạnh, dẫn tới sự nhu nhược của nhà cầm quyền Việt Nam trước các hành động thôn tính, xâm lấn hải đảo, vùng biển, vùng trời. Thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam trước việc Trung Quốc xâm lấn các đảo ở Hoàng Sa, Trường sa, ngăn cản, tấn công ngư dân ngay trong ngư trường Việt Nam, và gần đây nhất là kiểm soát vùng trời, máy bay Việt nam rơi không rõ nguyên nhân...đã làm người dân hết sức phẫn nộ. Không những vậy, việc vô trách nhiệm trước thảm họa môi trường biển miền Trung, thảm họa cá chết và công khai đàn áp người dân xuống đường tuần hành vì môi trường càng làm cho người dân sục sôi căm hờn. Bản thân những người trong guồng máy cũng ngày càng hiểu ra những bất cập của nhà cầm quyền Việt Nam. Hàng ngày họ được tiếp xúc, được thông tin qua hệ thống Internet, mạng xã hội về tất cả sự thật đi ngược lại những điều họ được dạy, phải nghe. Những thực tế trần trụi hàng ngày hàng giờ tác động khiến cho sự cật vấn lương tâm của họ càng thêm gay gắt. Cộng với thông tin về số nợ công, tình trạng tham nhũng...đã làm họ mất phương hướng và nảy sinh tâm trạng rã đám và buông xuôi. Đến một lúc nào đó, khi họ cảm nhận được, sự níu giữ, duy trì một chế độ tồi dở là tội ác và vô vọng thì khi đó họ không còn động lực để duy trì, bảo vệ chế độ nữa. Quá trình này đang xảy ra và ngày càng áp đảo trong chính hệ thống thống trị hiện nay.

     Như vậy, về cơ bản, sự cạn kiệt nguồn lực sẽ quyết định sự tồn vong của chế độ cộng sản Việt Nam. Tất cả các khía cạnh, lĩnh vực và phương diện của thực tế cuộc sống đều báo hiệu sự vượt ngưỡng chịu đựng của người dân. Tuy vậy, vẫn cần một cú huých, một biến cố làm vỡ tung sức chịu đựng của người dân, làm rã đám và buông xuôi ngay cả những kẻ đã và đang trấn áp người dân khi đã nhận ra sự vô vọng của việc níu giữ, bảo vệ chế độ. Việt Nam đang chờ một biến cố như vậy trong tương lai rất gần./.

Hà Nội, ngày 18/6/2016

N.V.B