Trần Đông Đức
Tình Đồng chí trên... sân khấu
 
Hai chữ "Đồng Chí" lâu nay được xem như là ngôn từ đặc trưng, thậm chí   mang tính độc quyền trong quan hệ ràng buộc ý chí vào nhau dưới chế độ   xã hội chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc do Mao Trạch Đông sáng lập. Mặc   dù trước đó, trong cuộc cách mạng tư sản Tân Hợi, Tôn Dật Tiên cũng có   dùng qua mấy lần nhưng chỉ dừng ở dạng đang nằm trong câu văn chứ chưa  hiện  rõ như một cao trào xưng hô long trời lở đất như kiểu các đồng chí  cộng  sản với nhau.
Ở nước ta, từ đồng chí tồn tại trong văn hóa  văn chương không khác gì Trung Quốc là mấy. Các đảng phái ngoài cộng  sản cũng có dùng để xưng hô với nhau. Cụ Phan Bội Châu cũng có dùng mấy  lần trong các sáng tác văn chương. Thế rồi, cũng như Trung Quốc, cao  trào cách mạng cộng sản đã biến thể từ đồng chí thành thương hiệu độc  quyền y chang như bên Trung Quốc.
Mao Trạch Đông là người  có tâm huyết lớn về mặt cải biên ngôn ngữ Trung Quốc trở thành một thứ  văn hóa đặc thù của chế độ cộng sản. Dưới thời Mao, ngoài việc Trung  Quốc cải biên chữ Hán từ lối truyền thống ngàn năm (phồn thể) sang hệ  thống đơn giản (giản thể) rút nét, Mao ta còn hiếu kỳ tìm kiếm các khái  niệm, các loại từ trong văn học cổ điển Trung Quốc (và có khi còn cả Tây  Âu) để nâng cấp chúng, biến chúng thành đặc sản ngữ văn của Mao văn hóa  tạo nên hai luồng văn tự Trung Quốc đang tồn tại. Gần đây, tuy quan hệ  giữa Đài Loan và Trung Quốc có phần nồng ấm hơn, nhưng tổng thống của  Đài Loan ra quyết định cấm tuyệt đối loại chữ Hán giản thể kiểu Trung  Quốc đại lục in ấn ở Đài Loan và coi là một nguy cơ xâm lăng văn hóa.
Lấy ví dụ chữ Ái "愛" trong Ái Tình mà chiết tự thì thấy nó mang máng  chữ Thụ "受" đang viết nửa chừng, rồi một quả tim (chữ Tâm"心") như bị áp  lực trên trên dưới dưới khiến nó bị dồn ép tràn trào, làm người ta liên  tưởng ngay đến khái niệm chân lý của tình yêu do tâm phát xuất. Chỉ một  chữ Ái của người xưa là một sơ đồ về mặt cảm xúc - cảm khái dạt dào ghi  hoài không hết. Trong lúc đó chữ Ái "爱" thời Mao Trạch Đông, thay vì có  hình con tim đang bị áp lực mấy lần thì chỉ nháy vào đó chữ Hữu "友" , có  nghĩa là bạn bè, nhìn thô, không còn tim tiếc gì sất. Khách quan mà nói  chữ Ái kiểu này về mặt "thuyết văn giải tự" có sự vô duyên nếu không  nói là có âm mưu phủ nhận ái tình theo bản năng và tâm thức lãng mạn.
Văn hóa Đồng Chí 
Thế  rồi chuyện lại liên quan đến từ Đồng Chí: Theo sách vở xưa, từ đồng chí  xuất hiện từ thời đại Xuân Thu Chiến Quốc và liên tục cho đến các sách  Hậu Hán Thư, Tấn Ngữ đều có ghi lại đàng hoàng, "đồng đức tắc đồng tâm,  đồng tâm tắc đồng chí" (同德則同心,同心則同志) để chỉ về mối quan hệ minh hữu  có  cùng chí hướng trong các quan hệ mang tính trưởng giả đời xưa. Cũng có  khi trong cổ thi Trung Quốc, khát vọng dâng cao quá! không biết làm sao  diễn tả như cảnh hô hoán giữa trời của người vợ mới cưới được một tháng  đang chờ chồng, có lẽ đang quá độ (qua đò) ở bến sông.
Chu nhân vọng tưởng năng đồng chí,
Nhất nguyệt không tương tân phụ hô
Thế  rồi, cách mạng cộng sản trỗi dậy, từ đồng chí được chú ý để phiên dịch  khái niệm "Dawarish" từ tiếng Nga Xô Viết. Cách mạng cộng sản thành công  ở Trung Quốc rồi, đồng chí trở thành một thứ xưng hô cào bằng tất cả  các trật tự cho khỏi giai cấp và khách sáo phiền phức. Đồng chí trở  thành độc quyền sử dụng, là đặc sản ngữ văn và trở thành văn hóa bản sắc  đóng vai trò xóa bỏ giai cấp cho đến bây giờ.
Đồng Chí là Đồng Tính Luyến Ái
Nhưng  hiện nay, từ đồng chí đang gặp trở ngại trong cách sử dụng thông  thường. Số là vào khoảng thập niên 80-90, khi văn hóa Hồng Kông còn  mạnh, không biết làm thế nào mà sau một đêm ra mắt tiết mục có tên  "Hương Cảng Đồng Chí Điện Ảnh Tiết" dành cho loại phim đồng tính tạo cảm  động nhất thời. Sau đó, hai chữ đồng chí trở thành định nghĩa dành cho  quan hệ đồng tính nam. Không bao lâu, các vùng sử dụng Hoa Ngữ ngoài  Trung Quốc như Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Malaysia… đều nhất loạt  dùng từ đồng chí để xưng hô cho đồng tính nam, dần dần đồng tính nữ, dần  dần cả khối GLBT (gay, lesbian, bisexual, transgender).  Cộng đồng đồng  chí mới phát triển nhanh chóng, thách thức danh nghĩa và chủ quyền sử  dụng mà bấy lâu nay đảng cộng sản Trung Quốc đã dày công thiết lập.
Không thể nói được bằng lời về sự quan trọng cuộc cách mạng giới tính  thứ ba này đã phá vỡ quan hệ đồng chí, là nền tảng cho sự kết nối đảng  viên trong thể chế cộng sản. Ngày nay, khái niệm này đã khiến các đảng  viên trẻ tuổi mới gia nhập bị ngờ ngợ khi xưng hô với nhau mà không thể  nào mà không liên tưởng đến cảnh trong phim Đoạn Bối Sơn (Brokeback  Mountain). Cho dù, báo chí chính thức của Trung Quốc như Tân Hoa Xã vẫn  còn chưa chịu thừa nhận định nghĩa mới này nhưng không thể nào phủ nhận  sức ảnh hưởng của nó đang xói mòn trật tự do Mao Trạch Đông thai nghén.  Cùng với thái độ kỳ thị đồng tính luyến ái (không nói ra) của xã hội  Trung Quốc, đồng chí trở thành mũi dao gí vào như châm chích khiến các  "đồng chí chân tình" trong đảng cộng sản nhìn nhau cũng thấy sường  sượng. Khối GLBT như cướp được diễn đàn cộng sản một cách quá ngoạn mục.
Cộng  với sự phát triển kinh tế văn hóa hiện nay, đồng chí của đảng cộng sản  trở thành thứ lạc hậu dở hơi. Các đồng chí có thích thì xưng với nhau  trong phòng khi họp kín riêng tư chứ bên ngoài xã hội không ai còn muốn  dùng nữa!. Trên mạng Baidu của Trung Quốc, khi định nghĩa về từ đồng chí  thì lại dành một phần quan trọng để giải thích văn hóa Cầu Vòng của dân  đồng tính coi như đã thừa nhận trào lưu văn hóa  mới. Văn hóa đồng chí  của chế độ cộng sản Trung Quốc đã hoàn toàn mất đất.
Đồng Chí ở Việt Nam
Có  thể nói văn hóa đồng chí ở Việt Nam cũng tương tự như Trung Quốc. Vào  thời điểm cao trào cách mạng, miền Bắc cũng sử dụng lối xưng hô để cào  bằng tất cả. Trong sách vở vào thập niên 60, Việt Nam cũng dùng cụm từ  đồng chí vợ, đồng chí chồng gọi nhau một cách trào lưu nhưng không kém  phần trào phúng. Nói như thế để biết rằng văn hóa thời Mao Trạch Đông  thâm nhập vào Việt Nam cũng tinh vi từ trên xuống dưới. "Nhân dân chỉ có  nhân dân…", "Vì Nhân Dân Phục Vụ" là những loại khẩu hiệu rập khuôn từ  Trung Quốc Mao Trạch Đông đưa sang Bắc Việt. Tuy nhiên, vào giai  đoạn đồng chí ở Trung Quốc biến dạng để thành đồng tính thì văn hóa phổ  thông ở Việt Nam không bắt kịp và chưa tiếp nhận được sự kiện trọng đại  này.
Ngày nay lãnh tụ hai nước Việt Trung thỉnh thoảng gọi  nhau là đồng chí để gợi lại quan hệ nồng ấm thời Hồ Chí Minh và Mao  Trạch Đông. Phía Việt Nam làm ra vẻ thân mật vô tư lắm, còn phía Trung  Quốc có vẻ ngường ngượng bất đắc dĩ bởi vì khi lên mặt báo với hai chữ  đồng chí thế nào cũng bị độc giả Trung Quốc dèm pha vài câu. May mà sau  này lãnh tụ hai phía Trung Việt đã thống nhất bỏ màn ôm hôn thắm thiết  không thì báo chí Hoa Ngữ ở Hồng Kông, Đài Loan nó đem ra bêu rếu chọc  quê cho thì còn nước… mếu.
Ảnh: Tình đồng chí thật, thắm thiết của Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai
Tuy nhiên, Việt Nam không thể nào vô tư hoàn toàn trước sự biến  chuyển mang tính thời đại của tình đồng chí thành tình đồng tính được.  Trong một bài thơ có tên "Đồng Chí" của Chính Hữu được phổ nhạc đã diễn  tả đầy đủ tâm trạng và hình ảnh của hai chiến sĩ Cụ Hồ "đêm rét chung  chăn thành đôi tri kỷ", rồi lại hô hoán lên giữa trời hai chữ Đồng Chí  như kiểu chu nhân ngóng đò thời xưa. Các học giả Trung Quốc ngày nay  cũng hay sử dụng các biện pháp phân tích tìm tòi về mặt tâm lý để nhận  ra rằng các mối quan hệ của Bá Nha - Tử Kỳ, Triệu Vân - Lưu Bị từ thời  cổ đại đều có chất đồng tính.
Xét cho cùng, bài Đồng Chí  của Việt Nam có đủ các yếu tố tình cờ tao ngộ, hồn nhiên lưu luyến, nóng  lạnh cảm hàn, đầu súng trăng treo để rồi ca tụng tâm sự trữ tình của  hai đảng viên lúc cơn nguy biến mà vẫn lãng mạn vô bờ như kiểu đang yêu  nhau. Do đó, khả năng bài Đồng Chí của Việt Nam cũng chính là một dạng  tâm lý lãng mạn kiểu  Đồng Tính Luyến Ái là rất cao. Nghi lắm!
Đảng  cộng sản Trung Quốc có thế lực bao trùm mấy chục năm nay nay bị buộc  phải nhường hai chữ đồng chí lại cho phe đồng tính. Đây chính là một  trào lưu cách mạng, một diễn biến hòa bình không tiếng súng mà phía  Trung Cộng trung ương không thể công khai tuyên truyền đính chính để rồi  đàn áp hay dập tắt.