You are here

Thích Tuệ Sỹ và con đường khác cho Phật tử, Phật giáo

Ảnh của DongPhungViet

Sự kiện Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch đang khuấy động dư luận. Bên cạnh tiếc thương và kính phục về đức độ, sự uyên bác của một cao tăng (1), dù muốn hay không thiên hạ cũng phải chú ý đến một thực thể không những không được chính quyền Cộng hòa XHCN Việt Nam thừa nhận mà còn tìm đủ mọi cách để loại trừ trong bốn thập niên: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 

Đa số Phật tử nói riêng và dân chúng Việt Nam nói chung vốn đang thất thần trước một “Phật giáo” như khái quát của Canh Lê: “Chùa to, tượng lớn xa hoa kệch cỡm, bày biện diêm dúa, trang hoàng sặc sỡ, thờ cúng loạn ngầu,... sư sãi tiêu xài xa xỉ, hoang phí tham mạn, dốt nát đọc chưa thông, viết chưa thạo, vô sỉ, hám danh, hám lợi luồn cúi cường quyền, tư biện cá nhân lòe bịp bá tánh, lợi dụng ‘kinh Phật’, ‘pháp Phật’ để rêu rao những chuyện chính trị mập mờ, mê tín dị đoan, yêu ma quỷ quái nhằm mê hoặc tín đồ, dụ dỗ ‘cúng dường chuyển nghiệp’, ‘bố thí tạo phước’, ‘hóa vàng cúng vong’, ‘cầu an cầu siêu’, ‘dâng sao giải hạn’, ‘giải oan cắt kết’... để kiếm chác” trở thành một trong những lý do chính “khiến con người kinh loạn thân tâm, u mê ám chướng, mịt mù Nhân - Quả, lạc lầm Tội - Phước, hối hả hối lộ quan chức và thần thánh để thỏa mãn lòng tham vô độ, sẵn sàng hãm hại lẫn nhau để mưu cầu lợi ích bất chính, cấu kết cướp đất phân lô bán nền, đồng lõa buôn gian bán lận, đồng phạm hàng gian hàng giả, gian dối “trồng lúa hai thửa, trồng rau hai luống, nuôi lợn hai máng, nuôi gà hai chuồng,...”, nhẫn tâm trộn thuốc kháng sinh, pha thuốc tăng trưởng, phun thuốc kích thích, tiêm thuốc bảo quản... không thể kể xiết” (2) – qua sự kiện Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch có cơ hội nhận ra một kiểu TĂNG khác, một kiểu TU khác và một PHẬT GIÁO khác.

Tuy kiểu TĂNG đó, kiểu TU đó và PHẬT GIÁO đó bị đọa đày hết sức tàn khốc nhưng rất ít người, kể cả Phật tử biết và bận tâm vì sao lại thế? Nay, dù muốn hay không thì những thông tin liên quan đến cuộc đời và di nghiệp của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ khi ông tạ thế chắc chắn sẽ gợi ý cho nhiều Phật tử, cũng như dân chúng Việt Nam ngẫm nghĩ, so sánh giữa PHẬT GIÁO mà Hòa thượng hiến thân phụng sự với Giáo hội Phật giáo Việt Nam đang theo đuổi đường hướng “đạo pháp – dân tộc – chủ nghĩa xã hội”.    

Không phải tự nhiên mà Giác Ngộ - cơ quan ngôn luận của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở TP.HCM - loan tin Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ viên tịch vừa với sự trân trọng hiếm có (3), vừa lờ đi chuyện ông bị chính quyền Cộng hòa XHCN Việt Nam cưỡng bức “cải tạo” từ 1978 đến 1981. Đến 1984, lại bị tống giam lần hai, rồi ông và nhiều tăng, ni của GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT bị cáo buộc “lật đổ chính quyền”, bị phạt tử hình cùng với Đại đức Thích Trí Siêu (Giáo sư Lê Mạnh Thát). Tuy cương quyết không xin ân xá vì: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo và Đại khối Dân tộc” nhưng do áp lực của cộng đồng quốc tế, chính quyền Việt Nam tự động chuyển án tử hình đã tuyên với ông và Đại đức Thích Trí Siêu  thành án tù có thời hạn (20 năm) và đến năm 1998, tự động phóng thích ông bởi ông từ chối thừa nhận “quyền khoan hồng hay ân xá” của bộ máy đã xét xử ông (4). Cho dù trung thành với “đạo pháp – dân tộc – CNXH” nhưng Giác Ngộ không thể lờ đi việc Thích Tuệ Sỹ viên tịch, dù điều ông răn dạy đệ tử rõ ràng là sự chê trách việc dán CNXH vào Phật giáo: “Chớ khoa trương bảo vệ Chánh Pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma Vương, là nơi tụ hội của cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức”.   

Cũng không phải tự nhiên mà ông Thích Nhật Từ - Thượng tọa, Phó ban Trị sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở TP.HCM, vốn nổi tiếng về sân, si – thừa nhận: “Tấm gương của Hòa thượng Tuệ Sỹ đã trở thành niềm khích lệ rất lớn đối với các thế hệ tăng ni bất luận đi theo bất cứ ý thức hệ giao tiếp nào, sa môn pháp phái nào” và việc Hòa thượng Thích Tuệ sĩ phủ nhận Giáo hội Phật giáo Việt Nam – tổ chức tôn giáo phục vụ đảng CSVN là: “Không có gì đáng tiếc vì mỗi người một hạnh nguyện hành đạo riêng” (5).

***

Bất kể thế nào, cuộc đời và di nghiệp của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chắc chắn sẽ gợi mở cho mọi người, đặc biệt là gợi mở cho Phật tử Việt Nam về một PHẬT GIÁO khác đúng với tinh thần PHẬT GIÁO, khác hẳn “Phật giáo” đang làm nhiều người ủ ê tới mức phải than “mạt pháp”. Trên mạng xã hội, tâm tình của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ gửi tăng sinh Thừa Thiên – Huế cách nay 20 năm bỗng nhiên rất mới với rất nhiều người:

“... So với khối lượng Tăng Ni sinh trong cả nước, các con chỉ là một nhóm nhỏ. Ít, nhưng đấy là những hạt lúa chắc. Nhiều, nhưng chỉ là vỏ trấu, và là những hạt chưa được ủ mầm mà đã mục rỗng bên trong. Các con hãy tự hào, với niềm tự hào trong trắng và vô tư của tuổi trẻ, từ thời điểm cột mốc này, đã một lần và mãi mãi đứng thẳng trên đôi chân của chính mình, bằng đôi mắt trí tuệ và hùng lực mà nhìn thẳng không khiếp sợ vào quyền lực xấu ác của thế gian, tự định hướng đi cho bản thân để làm những việc cần làm cho chính mình và cho mọi người.

Thế hệ của Thầy, những thanh niên trang lứa được nuôi dưỡng để đưa vào chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ, được giáo dục để biết hận thù giai cấp. Nhưng may thay, dòng suối từ vẫn âm thầm tuôn chảy để xoa dịu những đau thương mất mát, để hàn gắn những đổ vỡ điêu tàn của dân tộc.

Các con lớn lên trong thời đại thanh bình, nhưng các con lại bị ném vào giữa một xã hội mất hướng. Quê hương và đạo pháp là những mỹ từ thân thương nhưng đã trở thành sáo rỗng. Các bậc Cao tăng Thạc đức, một thời đã đánh thức lương tâm nhân loại trước cuộc chiến hung tàn, đã giữ vững con thuyền đạo pháp trong lòng dân tộc, nay chỉ còn lại bóng mờ và quên lãng…

Thế hệ các con được giáo dục để quên đi quá khứ. Nhiều người trong các con không biết đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là gì, đã làm gì và đã cống hiến những gì cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, hòa bình dân tộc trong những giai đoạn hiểm nghèo của lịch sử dân tộc và đạo pháp, của đất nước. Một quá khứ chỉ mới như ngày hôm qua mà di sản vẫn còn đó nhưng đã bị chối bỏ một cách vội vàng. Di sản được tích lũy ròng rã hằng thế kỷ, bằng tâm tư của bao khổ lụy đau thương, bằng máu và nước mắt của biết bao Tăng Ni, Phật Tử mà những người gầy dựng nên di sản đó bằng bi nguyện và hùng lực của mình, có vị bị bức tử bởi bạo quyền, có vị suốt năm tháng dài chịu tù đày, bị lăng nhục. Nhưng sống hay chết, vinh hay nhục không làm dao động tâm tư của những ai biết sống và chết xứng đáng với phẩm cách của con người, không hổ thẹn với phẩm hạnh cao quý của bậc xuất gia.

Người xuất gia, khi cất bước ra đi là hướng đến phương trời cao rộng, tâm tính và hình hài không theo thế tục; không buông mình chiều theo mọi giá trị hư dối của thế gian; không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền, bạo lực... Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại, đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy mà ngay cả người đời nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn danh tiết. Chớ khoa trương bảo vệ Chánh Pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn nấp cho ma vương, làm nơi tụ hội cho cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức. Xưa kia, khi vua chúa bắt sư tăng cúi đầu nhận tước lộc của triều đình để làm tôi tớ cho vương hầu, Chư Tổ đã sẵn sàng đặt đầu mình trước gươm bén, giữ vững khí tiết của người xuất gia, bước theo dấu chân vô úy, vô cầu của các Thánh đệ tử, được gói gọn trong thanh quy: ‘Sa-môn bất kỉnh vương giả’.

Nhẫn nhịn đời, nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong vòng xoáy ô trược của thế gian. Các con hãy tự rèn luyện cho mình một tín tâm bất hoại; một đức tính dũng mãnh vô úy; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng Văn-Tư-Tu để nhìn rõ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rõ mình đang ở đâu, đang đi về đâu; không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong, đang lao xuống dốc dài không định hướng.

Mỗi thế hệ có vấn đề riêng của nó do những biến thiên của xã hội chung quanh, do những biến cố giao động mang tính thời đại. Thế hệ của thầy thừa hưởng được nhiều từ Thầy Tổ nhưng chưa hề báo đáp được ân đức giáo dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn ba mươi tuổi, đã phải khép lại cổng chùa, vác cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc như mọi người; rồi lại vào tù ra khám, lênh đênh theo vận nước thăng trầm; sở học và sơ tri cũng cùn mòn theo tuổi đời, năm tháng. Duy, chưa có điều gì thất tiết để điếm nhục tông môn, uổng công Sư Trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉ mong cùng chia sẻ với thế hệ kế thừa, một thế hệ đang trưởng thành để khơi tỏ ngọn đèn Chánh Pháp giữa một đất nước thấm nhuần phong hóa.

Cầu mong các con có đủ dõng mãnh để đi bằng đôi chân của mình, nhìn bằng đôi mắt của mình, tự xác định hướng đi cho chính mình. Thầy sẽ là người bạn đồng hành với các con trên đoạn đường bóng xế của đời mình” (6).

Tham khảo

(1) https://tuesy.net/

(2) https://www.facebook.com/canh.le.353/posts/pfbid02q1u6pTcrqp4FmakMJ6X8XverwUmZFSqAKasyY5jHcqf4eCf7T8n5K7iaU4rWC2uml

(3) https://giacngo.vn/hoa-thuong-thich-tue-sy-vua-vien-tich-post69454.html

(4) https://tuesy.net/tieu-su/

(5) https://www.voatiengviet.com/a/thich-tue-sy-vi-tu-sy-xuat-chung-ve-tri-thuc-va-giao-duc/7368637.html

(6) https://thuviengdpt.info/thu-gui-tang-sinh-thua-thien-hue-cua-thay-tue-sy/