You are here

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Người Nhật / Người Lào & Người Việt

Ảnh của tuongnangtien

Ai mơ ước người Việt được như người Nhật thì cứ việc. Tui tỉnh táo và thực tế hơn, mơ ước dân mình được như... dân Lào.

Hồng Hải

Từ Paris, nhà báo Từ Thức vừa kể cho độc giả một câu chuyện (làm quà) về xứ Anh Đào:

Loạng quạng, đánh rơi cái ví (portefeuille), trong đó có thẻ kiểm tra ( ID/ carte d’identité), carte bleue ( credit card ), 250 Euros và một số tiền Nhật mới đổi. Ra bót cảnh sát đầu đường. Nhân viên cảnh sát có vẻ mừng rỡ vì có việc làm. Thường thường, cảnh sát Nhật ngồi buồn tênh, đi ra đi vào, không có ai thưa gởi gì, không có ẩu đả, ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp, lừa đảo. Thỉnh thoảng vớ được một bà già té xỉu, chở tới bệnh viện. Hay đưa một ông cụ qua đường (đưa thực, không phải dìu ông già trước máy quay phim, quay phim xong đá đít ông già) hay chỉ lối cho một du khách tới một địa chỉ không có tên đường. Một ông cảnh sát mở computer, coi danh sách những đồ vật lượm được trong thành phố. Một bà gọi điện thoại tới phi trường. Người thứ ba đứng coi, sẵn sàng phụ tá 2 đồng nghiệp. Họ hơi thất vọng vì không tìm thấy gì, khuyên nên trở lại buổi chiều . Chiều, trở lại, họ đã tìm được cái ví. Có người lượm được dưới ghế một xe bus, đưa cho tài xế. Giấy tờ, tiền bạc còn y nguyên. Xứ sở gì kỳ cục.

Tôi vốn tính hiếu kỳ lại đang vô cùng rảnh rỗi nên nghe qua câu chuyện (“kỳ cục”) như thế thì không khỏi “động lòng bốn phương,”  muốn thực hiện ngay một chuyến “Đông Du” cho biết đó biết đây. Ngặt nỗi, lần đi lần khó mà đi Nhật thì e khó ở được lâu vì giá sinh hoạt dường như không rẻ. Phòng trọ bình dân, nghe đâu, cũng cỡ 50/70 U.S.A dollars một đêm, chứ không thể ít hơn.

Với túi tiền cạn cợt của tôi, có lẽ, chỉ ở được dăm hôm rồi lại phải lủi thủi quay về. Mà về nhà với vợ thì ai mà không sợ. Bởi thế, thay vì đến Nhật, tôi quyết định qua Lào. Ở xứ sở này thì thuê một cái bungalow (free wifi, phòng tắm riêng, no A/C nhưng quạt máy chạy vù vù) chỉ phải trả 5 hay 7 đô là hết mức. Với một nghìn Mỹ Kim thì có thể ở chơi đến đôi ba tháng.

Tôi đã “chơi” kiểu đó đôi ba lần rồi nhưng vẫn chưa thấy ngán. Lần này tôi quyết định ghé Nam Lào, xem hết rừng núi thác ghềnh của Si Phan Don ( ສີ່ພັນດອນ, 4000 Islands) cho mãn nhãn. Hoá ra Bốn Ngàn Đảo là cái tên hơi nặng tính thậm xưng. Thiên hạ cứ gọi thế nghe cho nó đã miệng, chứ thực sự cả quần đảo này chỉ vài nơi có đông đảo dân cư tụ tập (Don Det, Don Khone, Don Khong …) kỳ dư đều là những doi, giồng hay cồn cát nhỏ. Chả có ma nào trên đó cả vì chúng bé tí teo, và vào mùa lũ thì hầu hết đều chìm trong sóng nước.

Bởi ham vui nên tôi tắp vào Don Det trước vì nghe tiếng đây là nơi ưa chuộng của những cô cậu Tây Ba Lô thích sống đời nhộn nhịp. Tiếng thế thôi chứ một đám du khách ngoại quốc, bất kể thành phần, không thể khiến cho hòn đảo này mất đi vẻ hiền lành và an bình cố hữu.

Thì cũng hàng quán, rượu bia, âm nhạc nhưng tuyệt nhiên không ồn ào hay náo động. Dòng sông Mê Kong hiền hoà và tính nết hiền lành, chân chất của cư dân địa phương quả là có sức “lan toả” và “cảm hoá” đến độ diệu kỳ. Chả vị khách lạ nào có đủ trơ tráo để quấy động quan cảnh thiên nhiên thuần khiết, và nếp sống an bình ở nơi đây cả.

Có lẽ cũng không nơi đâu mà cảnh hoàng hôn trên sông êm đềm, và diễm ảo như ở chốn này. Chiều qua rồi là cả hòn đảo nhỏ chìm đắm trong bóng đêm tĩnh lặng, chỉ  còn có tiếng nước sông âm thầm, nhỏ nhẹ, khe khẽ cuốn trôi.

Sáng, trong lúc cà phê thuốc lá, con gái của bà chủ trọ “gợi ý” tôi nên đi xem cá dolphin. Đi thì đi, tôi gật đầu dù biết rõ rằng loài cá heo sông này sắp tuyệt chủng đến nơi (vì những công tình thủy điện, và nguồn nước ô nhiễm từ phía thượng nguồn) nên cơ may gặp được vài chú irrawaddy ở Si Phan Don mong manh còn hơn như khói nữa.

Tôi đồng ý chỉ vì điểm khởi hành nằm ở bến sông (có tên trên bản đồ là French Port, một di tích từ thời thuộc địa) thuộc làng Ban Hang Khon. Từ đây, có thể nhìn thấy nương khoai rẫy bắp và nghe được tiếng gà gáy (xao xác) bên thôn ổ của nước láng giềng – Cambodia. Quê nhà, xem ra, cũng chả còn bao xa. Tuy thế, nếu về lần dò về bằng thuyền đò (có lẽ) cũng phải mất đến vài ba tháng – dù sông nước xuôi dòng.

Sau một lúc ngẩn ngơ, tôi nói với người tài xế xe tuk tuk là mình chỉ muốn đi vòng vòng đảo chơi thôi. Khỏi cần ghé qua thác ghềnh gì ráo vì tôi đã có dịp đến cả rồi. Chúng tôi băng qua một khu rừng tre thưa. Chú tài – thỉnh thoảng – lại chạy chậm hẳn lại, cúi nhặt những nhánh tre rơi khá lớn và vất vào bìa rừng.

Không cần lời giải thích, tôi cũng hiểu rằng những ngạnh tre nhọn có thể làm lủng lốp xe của bất cứ ai vô ý. Chú em còn trẻ măng, nụ cười thường trực trên khuôn mặt ngây ngô rám nắng. Thằng bé chưa chắc đã có cơ hội cắp sách đến trường một ngày nào nhưng thái độ vị tha và tinh thần trách nhiệm khiến tôi cảm động. Không dưng mà chợt nghĩ đến những “đạo quân đinh tặc” trên khắp mọi nẻo đường ở đất nước mình, cùng với một tiếng thở dài – cố nén!

Sau Don Det, tôi qua Don Khone. Hai hòn đảo con con được nối liền bằng một chiếc cầu bê tông nhỏ hẹp không tên nên thiên hạ gọi (đại) là French Bridge. Hoang dại và tĩnh lặng hơn cô em song sinh nằm kề, Done Khone chỉ có nhà cửa với dăm ba hàng quán (lưa thưa) nằm dưới những hàng dừa dọc theo dòng sông êm ả và kiều diễm.

Tôi đặt phòng trước qua internet nên khi đến nơi mới biết là nhà trọ nằm ở bên này đường, không tiếp giáp với mé sông, và cũng chả có một người khách nào khác cả. Chủ nhân cũng ở cách đó hơi xa. Càng vắng thì càng tốt.

Cho đến khi thức giấc giữa đêm khuya, tôi mới chợt nhận ra là mình đang trơ trọi một mình – giữa một dẫy bungalow trống lốc – trên một hòn đảo lạ (rồi) tự nhiên cảm thấy hơi bị bất an. Đợi mặt trời vừa ló dạng là tôi lặng lẽ quẩy ba lô đi chỗ khác liền, sau khi để lại một số tiền tip khá hậu hĩnh – như một lời tạ lỗi cho thái độ (“sao ra đi mà không bảo gì nhau”) không mấy lịch thiệp của mình.

Guest house tiếp theo cũng vắng nhưng ít nhất cũng có thêm một hai người khách, an toàn hơn thấy rõ. Tôi chỉ vừa xong ly cà phê và điếu thuốc đầu ngày thì chủ nhân của nhà trọ cũ xuất hiện với nụ cười hiền, và nét mặt tươi vui hớn hở chứ chả có vẻ chi là phật lòng hay phật ý cả. Bà lấy trong túi ra 50,000 kips (được bọc trong gói ny long cẩn thận, chắc là tờ giấy bạc tôi để lại hồi sáng sớm cho người dọn phòng) và nói rằng vì tôi bỏ quên tiền nên vội mang trả lại.  

Tôi cười khổ và cảm thấy xấu hổ vì cái cảm giác bất an của mình đêm trước. Trộm cắp, cướp bóc, và “bất an” đều do tôi tưởng tượng mà ra chứ không hề có trong tâm thức của người dân ở chốn này. Thảo nào mà cả tuần qua tôi chả thấy bóng dáng cảnh sát, công an, trật tự hay dân phòng gì ráo trọi. Cờ quạt, biểu ngữ, bích chương, loa phường, và hình ảnh lãnh tụ cũng khỏi có luôn. Ở đây, lỡ mà bị mất ví thì không thật không biết phải trình báo với ai, và chắc cũng khỏi cần vì thế nào người nhặt được mang đến tận nơi trả lại.

Thật là chả bù cho cái phần quê hương (“đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc”) của mình – nơi mà nhà báo Từ Thức vừa có những lời khuyên dành cho du khách, như sau:

  • Nếu ăn tiệm, thấy ngon, đừng khen. Người ta sẽ tăng giá gấp hai.
  • Mua hàng, phải trả giá. Trả giá bao nhiêu cũng hớ. Nhưng nên an ủi: Có người còn hớ hơn mình!
  • Để quên iPhone hay ví tiền, đừng quay trở lại, hỏi có ai lượm được không. Bạn đang ở VN, không ở Nhật.
  • Đi đường, chỉ nên đeo nhẫn hay đồ trang sức giả. Có thể bị mất ngón tay, nhưng không mất nhẫn... thật.
  • Khi có người hỏi: có biết bác Hồ không, đừng kể lể những điều bạn biết về ông Hồ qua Wikipedia. Khổ lắm, biết rồi, nói mãi. Người ta chỉ nhắc khéo bạn đã quên chi tiền. 

Sao cùng là nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản mà người Lào và người Việt lại khác nhau đến thế, hả Giời?