You are here

Vì sao Việt Nam tụt hậu?

Ảnh của nguyenvandai

Trên tờ báo mạng Vietnamnet có chuyên mục “Diễn đàn vì Việt Nam hùng cường” thu hút nhiều người Việt có tâm huyết viết bài đóng góp ý kiến.

Tôi quan tâm đến bài “Vì sao Việt Nam tụt hậu” của tác giả Hải Lộc. Tác giả đã đặt câu hỏi "tại sao chúng ta không đẩy lùi được nguy cơ tụt hậu về kinh tế như đã chỉ ra 30 năm nay và tụt hậu cứ đeo đẳng chúng ta?"

Tôi đồng ý với tác giả là chúng ta cùng chung tay tìm ra các giải pháp khắc phục và điều then chốt là phải tìm được nguyên nhân chính và cốt lõi của vấn đề thì mới có giải pháp phù hợp.

Trước hết thì tôi xin nêu lại thực trạng về kinh tế và bộ máy quản lý hành chính được trích từ bài viết của tác giả Hải Lộc:

Doanh nghiệp nội địa teo tóp

Môi trường kinh doanh để doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển không những không được cải thiện như mục tiêu ban đầu đã đề ra, mà trong một số mặt còn có biểu hiện ngược lại. Ví dụ, tình trạng “xin - cho” vẫn tiếp tục rất nghiêm trọng; “giấy phép con, cháu, chắt” tăng nhanh.

Cách đây gần 20 năm Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp đi khắp hang cùng ngõ hẻm để dọn dẹp “giấy phép con”, trong đó có những giấy phép mỗi lần nhắc tới ai cũng muốn khóc. Chẳng hạn, em bé bán báo lẻ dọc phố phải có giấy phép với thời hạn 3 tháng; chị mua ve chai cũng phải có giấy phép với thời hạn 6 tháng….

Còn nay, tình trạng trên cũng không khả quan hơn gì, nhiều “giấy phép con” chỉ Việt Nam mới có. Chẳng hạn, như “1 thỏi sô-cô-la cõng 13 giấy phép” hay chuyện “thời gian nuôi gà còn ngắn hơn thời gian xin giấy phép được bán gà”.

Hệ quả tất yếu của môi trường kinh doanh như vậy là hệ thống doanh nghiệp tư nhân trong nước ngày càng teo tóp, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vốn đã yếu, nay càng yếu hơn, trong khi hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng hơn…

Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế 2017 do Tổng cục Thống kê vừa công bố, vào thời điểm 01/01/2017 có 517 924 doanh nghiệp hoạt động. Trong khi đó, năm 2008 chúng ta đã có 800.000 doanh nghiệp hoạt động.

Cũng theo Báo cáo của Tổng cục thống kê về tình hình kinh tế-xã hội 11 tháng đầu năm 2018 thì số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đang ký hoặc chờ giải thể tăng đến 64% , trong khi số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới chỉ tăng có 4,5% đều so cùng kỳ.

Đặc biệt, quy mô doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhỏ, số doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng mạnh, chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp. Trong số doanh nghiệp vừa và nhỏ thì doanh nghiệp siêu nhỏ là chủ yếu, chiếm đến 74-75%.

Bộ máy phình to và hệ lụy

Trong tham luận công bố tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc học tập, quán triệt các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 6, khóa XII, ngày 29-11 vừa qua: Mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 39-NQ/TW (ngày 17-4-2015) của Bộ Chính trị, mỗi năm phải tinh giản 70.000 người, sau 2 năm thực hiện phải giảm 140.000 người mới theo tiến độ nhưng thực tế ngược lại, không giảm được mà còn tăng lên 96.000 người.

Như vậy, càng quyết tâm tinh giản biên chế thì biên chế tăng nhanh. Hệ lụy chung là tỷ lệ công nhân viên chức hưởng lương trên 1.000 dân của nước ta cao hơn rất nhiều so với nhiều nước: Việt Nam là 43 người chưa kể quân đội và công an, trong khi nhiều nước nước trong khu vực tính cả quân đội, công an như Philipines là 1.000 dân mới có 13 cán bộ công viên chức; Ấn Độ có 16 người; Indonesia 17 người; Singapore có 25 người.

Hơn nữa, chúng ta hiện có đến 30 đầu mối bộ, cơ quan ngang bộ trong khi ở Nhật Bản con số này chỉ là 11, Singapore là 15, Trung Quốc 20. So với các nước châu Âu thì Việt Nam cũng cao hơn rất nhiều.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang lạm phát về cấp phó. Cả nước hiện có 81.492 lãnh đạo cấp phó từ phó phòng đến thứ trưởng chiếm 21,7% trong tổng số cán bộ công chức từ Trung ương đến cấp huyện.

Tình trạng bộ máy phình to dẫn đến một hệ quả tất yếu khác là chi thường xuyên trong ngân sách nhà nước tăng nhanh. Chỉ sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, chi thường xuyên tăng lên 16,25%. Từ năm 2011 đến năm 2015 chi thường xuyên chiếm 65% tổng chi ngân sách, tăng 2,2 lần so 5 năm trước; gần đây chi thường xuyên lên đến hơn 72% tổng chi ngân sách.

Chi thường xuyên, chi trả nợ cả gốc lẫn lãi tăng lên thì tất yếu chi đầu tư phát triển phải giảm xuống. Hiện nay chi đầu tư phát triển của Nhà nước chủ yếu dựa vào vốn vay, nhu cầu chi đầu tư của Nhà nước tăng rất nhanh, nhất là chi để khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái, trong bối cảnh vay vốn không còn rẻ và dễ như trước.

Hai lĩnh vực trên chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau. Bộ máy nhà nước phình to sẽ luôn có xu hướng đặt ra thêm các điều kiện kinh doanh, hạn chế quyền kinh doanh của người dân, của doanh nghiệp.

“Câu hỏi đặt ra là tại sao chúng ta không những không đạt được mục tiêu đề ra trong hai chính sách lớn mà tôi điểm qua trên đây mà ngược lại?”

Đó là câu hỏi của tác giả Hải Lộc. Và câu trả lời đúng và hoàn chính xác đã có từ lâu, nhưng không phải ai cũng dám trả lời một cách thẳng thắn và công khai.

Vì sao Việt Nam tụt hậu?

Bởi vì đất nước chúng ta đang bị cai trị bởi đảng cộng sản và chế độ độc đảng toàn trị. Đó là một đảng và chế độ phản động luôn coi trọng quyền lực và lợi ích của chúng cao hơn lợi ích của quốc gia dân tộc.

Các chính sách của đảng cộng sản đề ra chỉ mang tính chất đối phó với sự bất bình của người dân và cũng mang tính chất mị dân, lừa dân.

Thứ nhất, các quan chức cộng sản của các bộ, các cơ quan hành chính chỉ có thể kiếm tiền, tham nhũng, lũng loạn và khống chế các doanh nghiệp bằng các giấy phép con. Nếu xoá bỏ giấy phép con các quan chức cộng sản và vợ con không thể sống sung sướng, không thể cho con cái du học, không thể có biệt thự hay căn hộ chung cư cao cấp, và những đồ dùng sa sỉ trong gia đình, không có tiền để bao các em chân dài,….

Bởi vậy, bỏ giấy phép chỗ này thì họ sẽ thêm giấy phép chỗ khác một cách kín đáo và tinh vi hơn.

Kết quả doanh nghiệp và người dân chịu khổ, đất nước thì tụt hậu.

Thứ hai, các quan chức cộng sản phải mua bán chức quyền rất tốn kém, nên khi có được quyền lực thì họ tìm mọi cách để hoàn vốn và ăn chơi. Ngoài việc tham nhũng, bòn rút từ ngân sách, sách nhiễu doanh nghiệp và người dân thì họ sử dụng quyền lực để bán chỗ làm việc trong cơ quan do họ quản lý.

Do vậy chúng ta đều thấy khi một quan chức cộng sản mới nhậm chức hoặc trước khi nghỉ hưu thường họ tuyển rất nhiều người vào cơ quan.

Bởi vậy chính sách giảm biên chế ngày hôm trước thì hôm sau sẽ làm giàu cho các quan chức cộng sản khi họ lại tuyển thêm rất nhiều biên chế, hợp đồng mới.

Căn nguyên của mọi vấn đề đều nằm ở chế độ độc đảng toàn trị. “Quyền lực tuyệt đối thì sinh ra sự tha hoá tuyệt đối”. Tức là khi đảng cộng sản VN có quyền lực tuyệt đối thì nó sẽ làm cho đảng cộng sản bị tha hoá tuyệt đối.

Và thực tế đã chứng minh một cách hùng hồn điều này là không có một quan chức cộng sản nào là không tham nhũng ít hoặc nhiều, bị lộ hay chưa bị lộ mà thôi.

Một chế độ chính trị độc đảng cộng sản tham nhũng và hủ bại thì không thể nào lãnh đạo một quốc phát triển thịnh vượng và văn minh được. Bởi mọi nỗ lực và thành quả lao động của Nhân dân sẽ bị chiếm đoạt và phá hoại bởi mọi từng lớp quan chức cộng sản trong chế độ.

Bởi vậy đó là nguyên nhân duy nhất mà Việt Nam vẫn bị tụt hậu và mãi mãi bị tụt hậu cho đến khi nào Nhân dân vùng lên xoá bỏ chế độ độc đảng cộng sản.