You are here

Những cuộc di dân lặng lẽ (tiếp theo)

Ảnh của nguyenvubinh

     …

     - Môi trường xã hội. Vấn đề nhức nhối và đáng buồn nhất trong môi trường xã hội ở Việt Nam, đó là việc cộng sản đã hủy diệt tình người, tình yêu thương của con người. Với mục đích thiết lập và duy trì sự thống trị, cộng sản đã hủy hoại tình người một cách có bài bản và hệ thống. Việc tấn công hủy diệt các tôn giáo chính là hủy diệt cơ sở của tình yêu thương của con người. Sống dưới chế độ cộng sản, con người trở nên thờ ơ, vô cảm, ích kỷ và ác độc với nhau. Rất nhiều những dẫn chứng có thể đưa ra chứng minh cho việc con người đối xử với nhau tàn nhẫn, độc ác. Vừa qua, trong dịp Tết Mậu Tuất, đã có hơn 4000 người người nhập viện vì đánh nhau trong cả nước (có năm kỷ lục là 6000 người).

     - Thực phẩm. Đến thời điểm này, có lẽ không ai ở Việt Nam không biết  và không ghê sợ tình trạng thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan không cách gì kiểm soát được. Thực phẩm bẩn và độc hại đến từ hai nguồn, nhập khẩu từ Trung Quốc và người Việt tự tạo ra để trục lợi. Nhà cầm quyền hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát nguồn thực phẩm độc hại, trong khi vẫn duy trì những cơ quan kiểm tra, giám sát, kiểm nghiệm thực phẩm. Hậu quả trực tiếp là số người bị ung thư của Việt Nam là 94.000 người mỗi năm. Tốc độ tăng số người bị ung thư nhanh nhất thế giới. Năm 1990, cả nước ước tính có 70.000 ca ung thư, đến năm 2015 là 150.000 bệnh nhân mới.

     Tổng hợp tất cả các nguyên nhân trên, tất nhiên vẫn còn một số nguyên nhân nữa, người dân Việt Nam đã cảm nhận được sự bế tắc và tương lại xám xịt ngay chính trên quê hương, đất nước mình. Vì vậy, khi có bất cứ cơ hội nào, họ đều bỏ nước ra đi tìm cho mình một tương lai mới, tươi sáng hơn.

     III/ Các sắc thái của cuộc di dân

     Gia đoạn từ 1990 tới nay, phần lớn những người ra đi là sự lựa chọn tự nguyện. Tuy nhiên, vẫn còn một số nhỏ người tỵ nạn chính trị, việc ra đi là do sức ép trực tiếp từ phía nhà cầm quyền. Đó là những người sắc tộc thiểu số, những người Thượng, những người theo đạo ở Tây Nguyên bị đàn áp, bắt bớ đã phải bỏ trốn sang những nước lân cận như Cam-pu-chia, Thái Lan. Một số người là nạn nhân của chính sách cướp đất và đàn áp tôn giáo như giáo dân giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng… cuối cùng là những người hoạt động, đấu tranh dân chủ lánh nạn ở các nước xung quanh, và những người đang trong nhà tù, ra đi để thoát cảnh tù đày và tiếp tục đấu tranh tại các quốc gia họ định cư. Tỵ nạn chính trị giai đoạn này không còn là lý do bảo vệ sinh mạng mà chỉ do cộng sản triệt đường sống và thoát khỏi sự tù đày.

     Đối với những người tự lựa chọn ra đi, không phải lý do chính trị, chúng ta thấy có những vấn đề xung quanh cuộc di dân lặng lẽ sau đây.

     1/ Những người ra đi vì động cơ kinh tế

     Thật ra, không có ai, hoặc có rất ít người ra đi đơn thuần vì động cơ kinh tế. Vấn đề chỉ là trong các thứ tự ưu tiên thì động cơ kinh tế xếp ở vị trí số một, nên chúng ta tạm gọi họ ra đi vì động cơ kinh tế. Đây là động cơ của phần lớn những người ra đi, và thực tế số lượng cũng là nhiều nhất.  Đó là những người đi xuất khẩu lao động, cả chính thức và xuất khẩu chui. Một làn sóng xuất khẩu lao động để giảm biên chế cuối những năm 80; làn sóng vượt biên sang Hồng Công cũng trong thời kỳ đó… Cuộc sống của những người này ở các quốc gia mới định cư không hề dễ dàng, cũng rất vất vả nhưng thu nhập và môi trường sống vẫn hơn hẳn Việt Nam. Trong số những thành phần này, phần lớn vẫn muốn tiếp tục cuộc sống ở các quốc gia định cư, và tìm cách ở lại, gia hạn hoặc trở về rồi đi tiếp. Một số nhỏ trở về vì không hội nhập được, hoặc gia đình ở Việt Nam cần họ hơn.

     2/ Du học và định cư ở nước ngoài

     Từ khi hội nhập trở lại với thế giới, số lượng du học sinh của Việt Nam ngày càng gia tăng. Những năm gần đây, số du học sinh tăng mạnh. Hiện tại có trên 130.000 du học sinh ở gần 50 quốc gia trên thế giới. Với nền giáo duc nhồi sọ và thất bại toàn diện hiện nay, nhiều người đã ví việc học sinh, sinh viên đi du học là tình trạng tỵ nạn về giáo dục. Đa số du học sinh ra nước ngoài đều mong muốn được tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến và để có công việc tốt hơn trong tương lai. Khi đã tiếp xúc với nền giáo dục và xã hội các nước phát triển, phần lớn du học sinh không muốn trở về Việt Nam để làm việc, công tác. Tình trạng này nhiều người đã gọi là quá trình “chảy máu chất xám”. Đây là nỗi đau của một dân tộc khi những con người tài năng, trí tuệ không được làm việc và cống hiến cho quê hương, đất nước. Một ví dụ điển hình, 16 học sinh đạt quán quân cuộc thi Đường lên đỉnh Olimpia (mỗi năm một học sinh) đến nay duy nhất có một người trở về làm việc ở Sài Gòn, số còn lại đều đầu quân cho các trường đại học và công ty ở Úc…

     (còn nữa)

Hà Nội, ngày 23/02/2018

N.V.B