You are here

Đã từng có các nỗ lực hoà bình ?

 Hôm nay nhân đọc được bài « Thử đưa ra một vài tài liệu lịch sử nói về mưu toan thỏa hiệp với Bắc Việt của ông Ngô Đình Nhu » của tác giả Phong Uyên trên trang Dân Luận, xin giới thiệu thêm một tài liệu nói về nỗ lực không thành giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh nhằm tránh chiến tranh và xây dựng một mô hình hai nhà nước liên bang. Có những tài liệu khác cũng chỉ ra rằng Hồ Chí Minh đã mất cả năm 1946 để tìm giải pháp thoả hiệp với Pháp nhằm tránh chiến tranh, nhưng đã thất bại. Và thời điểm đó Hồ Chí Minh bị coi là việt gian bán nước, đến mức trong một diễn văn phải lên tiếng thanh minh. Cần phải tìm hiểu xem tại sao ở Việt Nam các nỗ lực hoà bình ở thế kỷ trước đều bị thất bại ? Trước đó, các nỗ lực đi theo con đường tri thức và học vấn (đại diện là Phan Chu Trinh) cũng thất bại trước lựa chọn bạo lực. Và về sau, trước mỗi cuộc chiến, các nỗ lực đàm phán vì hoà bình cũng thất bại. Anh em Ngô Đình Diệm phải trả giá vì nỗ lực đó, Hồ Chí Minh cũng bị trả giá, nhưng theo một cách khác. Nhưng cái giá lớn nhất thì người dân Việt Nam phải trả. Và còn tiếp tục trả cho đến bây giờ, bởi dường như cuộc chiến vẫn chưa kết thúc, hoà bình vẫn chưa thể nào lập lại được. Vì sao các nỗ lực hoà bình đều thất bại ? Ở đây tôi chỉ đặt câu hỏi, chứ chưa đưa ra câu trả lời.

 Lịch sử Việt Nam còn quá nhiều góc khuất đối với đa số người Việt Nam, dù rằng các góc khuất đó phần nào đã được soi sáng bởi các sử gia nước ngoài từ lâu. Nhiều tài liệu cho phép nghĩ rằng, người quyết định số phận nước Việt Nam cộng sản là Lê Duẩn chứ không phải Hồ Chí Minh. Và cái chế độ mà ĐCS hiện nay đang hy sinh tất cả để bảo vệ là chế độ của Lê Duẩn hay của Hồ Chí Minh ? Vấn đề này còn cần phải tiếp tục làm sáng tỏ.

Dưới đây tôi trích dịch nguyên văn một số đoạn trong cuốn « Ho Chi Minh - Du révolutionnaire à l'icône » của Pierre Brocheux, NXB Payot & Rivages, 2003.

« Ngay từ 1956, Ngô Đình Diệm, người không ký vào Hiệp định Genève, đã công khai bác bỏ ý tưởng về cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc. Việc loại bỏ chủ nghĩa cộng sản được tiến hành song song với sự xây dựng một Nhà nước dân tộc chủ nghĩa ở phía nam vĩ tuyến 17 dẫn ông Diệm tới chỗ điều hành quốc gia theo phương thức độc tài, bằng cách trấn áp tất cả mọi ý định chống đối không phải là cộng sản, dù đó là sự chống đối của các đảng truyền thống, của các giáo phái mang tính chất tôn giáo- chính trị (như Cao Đài và Hoà Hảo) hay là các phong trào phật giáo. Chính phủ ông Diệm sử dụng các biện pháp đặc biệt và các biện pháp cưỡng bức, mà xét từ một số phương diện, giống một cách lạ lùng các biện pháp của chính quyền cộng sản ở ngoài Bắc. Trong các vùng nông thôn, các toà án lưu động được thiết lập với những buổi tố cáo những người cộng sản (từ nay được gọi là Việt Cộng) và thực thi lập tức những bản án tuyên ngay tại chỗ ; dân cư trước tiên bị tập trung lại theo từng vùng và sau đó là trong các « ấp chiến lược » (1962-1963). […] Ở thành phố, chính phủ thiết lập hệ thống đăng ký gia đình trong mỗi khu phố ; Diệm khởi động kiểm duyệt báo chí, bỏ tù những người đối lập. Đồng thời, ông cố truyền bá một ý thức hệ chính thống lấy cảm hứng từ chủ nghĩa nhân cách tôn giáo (gây thiệt thòi cho bạn bè và đệ tử của Emmanuel Mouniet, những người chống đối) và đem giảng dạy trong các chủng viện, nơi các viên chức được mời đến để nghe giảng. (tr.235-236)

Tuy nhiên, càng gần đến kỳ hạn phải tổng tuyển cử, thì càng thấy rõ ràng là không thể có tổng tuyển cử, và hai « vùng tập kết » biến thành hai nhà nước đối kháng tự cố thủ và đồng thời tự đặt mình vào quỹ đạo của hai phe đang hiện diện lúc đó trên sân khấu quốc tế. Dường như Hồ Chí Minh từ lâu vẫn hy vọng rằng có thể tiến hành tổng tuyển cử và tránh được chiến tranh. Ông thực sự tin vào điều đó hay chỉ là nói cho có vẻ ? Năm 1963, có trao đổi thư từ giữa Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh, qua trung gian của M. Maneli ; trao đổi thư tín này đề cập đến một mô hình trung lập và cùng tồn tại giữa hai Nhà nước, thậm chí là Nhà nước liên bang : một mô hình mà đại sứ Pháp Lalouette đã đề xuất trong những cuộc đối thoại với Maneli. Quan điểm này chắc chắn là phù hợp với mong muốn sâu xa của Hồ Chí Minh, muốn giải quyết vấn đề bằng con đường ngoại giao. Dù rằng không có bước tiếp theo, nhưng sự khởi đầu của cuộc thương lượng này đủ làm cho người Mỹ lo lắng và chắc hẳn nó góp phần vào việc đại sứ John Cabot Lodge chấp nhận cho Bộ tham mưu quân đội lật đổ tổng thống của Việt Nam Cộng hoà.

Trong ban lãnh đạo của Đảng lao động, một phe cánh do Tổng bí thư Lê Duẩn cầm đầu, được sự ủng hộ của thư ký Ban tổ chức Lê Đức Thọ và tướng Nguyễn Chí Thanh,  Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân, đã khuyên và chuẩn bị cho cuộc chiến với miền Nam. Khi Hồ Chí Minh bộc lộ những lo lắng hay phản đối việc tiếp tục đẩy đất nước và nhân dân vào cuộc chiến tranh, vì ông sợ rằng Mỹ sẽ can thiệp ồ ạt và sợ cho những hậu quả trực tiếp và hậu quả về sau cho nhân dân, Lê Duẩn […] trả lời : « Bác đừng sợ, tôi đã dự tính hết rồi, tôi đã chuẩn bị hết rồi. » (tr.237-238)

Năm 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam chính thức bầu Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất của Đảng […] Lê Đức Thọ, người giữ chức vụ then chốt là Thư ký Ban tổ chức, và Lê Duẩn tạo ra một cặp đôi chiếm đoạt quyền quyết định, kể cả sự biến mất của Hồ Chí Minh. Tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân, cũng giữ một vị trí then chốt, và trở nên ngang hàng với Võ Nguyên Giáp. Bộ ba này thực sự lãnh đạo chính trị Việt Nam và áp đặt quan điểm về cuộc chiến tranh một mất một còn với Miền Nam và không do dự tấn công trực diện các đội lính Mỹ. (Theo M.Maneli, ngay từ khi bắt đầu chiến sự ở miền Nam, Hồ Chí Minh không muốn tấn công trực tiếp quân đội Mỹ và các mục tiêu Mỹ). Kể từ đó, bộ ba lãnh đạo, và cùng với họ là đa số trong Trung Ương, họ chỉ còn thừa nhận ở Hồ Chí Minh vai trò ngoại giao và biểu tượng. » (tr.241)