You are here

Con cái chúng ta vô tội

Ảnh của tuankhanh

Tháng 9/2016, có bản tin nhỏ lọt thỏm trong thành phố vốn đã quá nhiều chuyện eo sèo. Bản tin kể về việc một nhóm thầy cô giáo của trường Bành Văn Trân, Tân Bình, tổ chức đấu tố một giáo viên vì dạy thêm ở nhà, theo lệnh của Phòng Giáo dục Quận Tân Bình, Sài Gòn. 

Bản tin nhỏ, nhưng phác họa khá rõ về bộ mặt giáo dục của Việt Nam hôm nay. Theo Phòng Giáo dục Quận Tân Bình, thì họ nhận được mật báo của “phụ huynh” nào đó nên đã yêu cầu trường hành động. Cô giáo này đã bị buộc phải hủy lớp dạy luyện thi chứng chỉ ngoại ngữ Cambridge – một chương trình học không dính líu gì đến sách giáo khoa của nhà trường. Cô cũng bị kỷ luật, không được xét thi đua và bị làm nhục bằng cách phải trả lại học phí cho tất cả các học sinh đã đến xin cô giúp dạy thêm.

Đây là một trong những sự kiện mới mẻ về chuyện thầy trò ở Việt Nam. Hình ảnh những người có tri thức, muốn truyền lại cho thế hệ sau theo thể thức truyền thống, bị chính quyền địa phương bị rượt đuổi, chận bắt quả tang, sao mà thật khó tả. Họ bị làm nhục và thậm chí bị phạt tiền như một loại tội đồ bởi thông tư 17 của Bộ Giáo dục Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cuộc đời như một vòng quay của bánh xe, nhưng ở đất nước này, nó là một vòng quay nghiệt ngã nhắc lại rằng sau gần nửa thế kỷ, những người trí thức lại gánh khổ nạn không khác gì những ngày sau tháng 4/1975. Kể từ khi đất nước có một Bộ Giáo dục duy nhất, miền Nam Việt Nam đã từng ngậm ngùi tiễn khoảng 50.000 tiến sĩ, giáo sư, cử nhân, nhà văn, nghệ sĩ… vào các trại tù tập trung cải tạo, trong tổng số hơn 2.500.000 người phải chịu khổ nạn ấy. Mà theo tài liệu của trang VietnamWar, giới trí thức, thầy cô giáo, giáo sư… bị xếp vào loại nguy hiểm bậc 2 và bậc 3, trong số 5 loại cần phải “cải tạo”.

Những đứa trẻ chưa đến 15 tuổi luyện thi chứng chỉ Cambridge, khi biết cô giáo của mình bị trừng phạt vì đã nỗ lực chia sớt kiến thức và kinh nghiệm cho chúng, hãy tự hỏi chúng đang nghĩ gì? 

Với những gì đã diễn ra trên đất nước này, lúc trưởng thành, chúng sẽ hiểu rằng mái trường xã hội chủ nghĩa không thơ mộng như những bài văn tả tiếng ve, hay những bài hát mùa hè. Mái trường xã hội chủ nghĩa mà chúng được biết từ sau 1975, được thống nhất bằng phương thức thô lậu: học sinh bị nghi ngờ điều gì đó sẽ bị chuyển cho công an thẩm tra, giam cầm. Thầy cô nếu dám dạy thêm cho chúng theo lời nài nỉ, thì có thể bị làm nhục bởi chính các nhà sư phạm khác.

Con cái chúng ta tội tình gì mà phải chứng kiến hay chịu những điều tổn thương ấy, dưới mái trường xã hội chủ nghĩa ấy?

Định kiến với dạy thêm và những biện pháp thô bỉ phi giáo dục được áp đặt cho những người thầy, người cô đang được coi là giải pháp thông minh của những người có trách nhiệm của ngành giáo dục. Hôm nay, Khổng Tử có mặt ở Việt Nam chắc cũng cùng đệ tử chạy bán sống bán chết trước tiếng tu huýt ruợt đuổi vì dám dạy thêm. Socrates sẽ ngậm miệng, không dám nói một lời minh triết nào trước đám học trò đến trước cửa ngồi chờ, vì sợ “phụ huynh” nào đó mật báo về kẻ dám dạy thêm. 

Đột nhiên, cách huấn dục phi chính phủ, đời gia sư… có từ ngàn đời, hôm nay lại phải đeo một bản án do những người cộng sản đặt ra.

Thật là một điều tồi tệ, khi Bộ Giáo dục Việt Nam không nhận ra hiện trạng của đất nước hôm nay, chính là vũng lầy do họ đào bới. Học thêm, lạm dụng học thêm hay khốn khổ phải học thêm…v.v,  tất cả mọi thứ đó là hậu quả bế tắc từ những nhà kiến thiết nền giáo dục tồi. Và khi hôm nay, để chạy chữa cho hiện trạng chính họ tạo ra, Bộ Giáo dục tạo nên một mệnh lệnh mới, phủi tay và đẩy tội lỗi về phía các thầy cô. Lạ lùng thay, khi con bệnh không chịu uống thuốc, nhưng lại buộc cả xã hội phải uống thuốc thay cho nó.

Tội nghiệp cho con cái chúng ta, những đứa trẻ vô tội. Chúng được đưa vào nhà trường và trở thành vật thí nghiệm cho những đề án cao xa, của một nền giáo dục từ sau 1975 đến nay luôn rộn rịp cải cách và huy hoàng trong những thất bại. Nhiều đời Bộ trưởng giáo dục Xã hội chủ nghĩa vẫy tay ra về trong đắc thắng, bất chấp văn hóa và tri thức của nhiều thế hệ ở lại, cấu bám nhau để cố thoát khỏi bờ vực. 

Trong một điều tra về nền giáo dục Việt Nam, AFP từng viết rằng “Mệt mỏi bởi những gian lận tràn lan, học vẹt vô tận và các lớp học tư tưởng Lênin bắt buộc, phụ huynh giới trung lưu của lứa học sinh trung học tại Việt Nam luôn nghĩ đến cách chạy trốn khỏi hệ thống trường học của quốc gia, để được giáo dục ở nước ngoài”.

Cũng theo tìm hiểu của AFP, đến năm 2015, mỗi năm giới phụ huynh chi hơn 1 tỉ USD để con mình được học ở các trường trung học và đại học ở nước ngoài. Nhưng đây cũng là ước mơ chung của khoảng 17 triệu học sinh và sinh viên tại Việt Nam vẫn mong được “tị nạn giáo dục” – một cách nói rất phổ biến từ hơn 5 năm nay. 

Xin hãy tự đặt ra một câu hỏi, ở Việt Nam, con cái chúng ta đang học để làm gì? Học để bị thí nghiệm tinh thần duy ý chí của các quan chức kém cỏi sáng kiến nhưng giỏi vâng lệnh? Học để tạo dựng cuộc đời cho chính mình, hay học để trở thành người phục vụ cho tư duy chính trị của đảng cầm quyền? “Bốn thập kỷ sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam vào năm 1975, các quan chức cộng sản vẫn chưa cải cách đầy đủ về một lĩnh vực giáo dục. Các nhà bình luận thì nói rằng các chương trình thì luôn nhằm để thúc đẩy tính Đảng, chứ không ưu tiên tạo ra một người giỏi việc”. AFP từng viết như vậy trong bài có tựa đề Vietnam's creaking education system pushes students overseas.

Gần đây, một tài liệu nghiên cứu mang tên Nhìn lại nền giáo dục VNCH: sự tiếc nuối vô bờ bến, luôn được tái đăng trên các trang mạng. Đọc lại những gì đã làm được của nền giáo dục bị gọi là đồi trụy, lai căng đó… quả là một sự tiếc nuối vô bờ bến về giáo dục và tinh thần độc lập dân tộc. Và hơn nữa, trong giai đoạn chiến tranh khốn khó, giới nhà giáo miền Nam - luôn sống với dạy thêm - vẫn được xem là thành phần được kính trọng bậc nhất của xã hội, thậm chí một chính khách hay tướng lĩnh khi đối diện vẫn phải cúi chào.

Nền giáo dục bị hủy bỏ đó không hô khẩu hiệu phải đứng hàng đầu thế giới, không đưa trẻ em vào đồn công an, không rượt đuổi các thầy cô giáo đến tận nhà để làm nhục vì dạy thêm… nhưng vẫn tạo ra những trí thức bậc nhất, mà sau 1975, ông Võ Văn Kiệt coi đó quý như vàng, và luôn mời gọi họ hãy ở lại giúp đất nước.

Những ngày chiến tranh Nam- Bắc Việt Nam, Trung Cộng vẫn là kẻ thù đáng gờm của Việt Nam Cộng Hòa, thế nhưng ở các trường đại học, người ta vẫn nghiên cứu và học tiếng Hán một cách bình thường. Nó khác với cái cách mà Bộ Giáo dục Việt Nam hôm nay hồ hởi thúc đẩy tiếng Hán vào nhà trường như một món quà nối kết tình đảng Việt – Trung, nhân danh văn hóa. 

Ngôn ngữ không có tội khi bị đưa vào giảng dạy. Và con cái chúng ta cũng không có tội để bị ép phải học ngôn ngữ nào mà chúng không muốn. Trong mối quan hệ mật thiết giữa đảng Cộng sản Việt Nam và đảng Cộng sản Trung Quốc, tiếng Hán có thể trở thành chuyện quan trọng – nhưng chắc chắn không thể coi chuyện học tiếng Hán như một cách “cứu sự sụp đổ tiếng Việt”, nhưng kiểu một tay trí thức hạng bét nào đó thích la liếm theo chính sách tuyên truyền, được báo chí nhà nước tung hô.

Con cái chúng ta vô tội, nên chúng không thể trở thành khán giả vô tình cho việc hủy hoại một nền giáo dục, hay đồng lõa biến con mình thành loại cừu ngu ngốc của các thí nghiệm áp đặt. Chúng phải được quyền tự chọn lựa học thêm hay không, trong thế giới này. 

Những đứa trẻ ngây thơ vô tội đó  cần tiếng nói của chúng ta - những phụ huynh - vốn đã có quá đủ kinh nghiệm về sự suy đồi trong xã hội vì im lặng.

Con cái chúng ta có nguyên bản sơ khởi là tự do và vô tội. Vậy chúng cũng cần được quyền lựa chọn học ngôn ngữ nào cho chính cuộc đời và tương lai của chúng, chứ không phải theo sự áp đặt tiến cống của ông Phùng Xuân Nhạ hay bất kỳ ai khác. Đừng quên, trong khi con cái chúng ta gồng gánh sách vở, và vứt bỏ cuộc đời bên ngoài để đáp ứng cho những chương trình cuồng điên của Bộ Giáo dục, thì có thể con cái những người như ông Nhạ đang rong chơi và thanh thản học những chương trình rất lành mạnh ở nước ngoài. 

Con cái chúng ta cũng vô tội như con cái những vị ấy. Chúng cần được sống trong một xã hội không có độc tài giáo dục và nói láo về Lê Văn Tám, Phan Đình Giót, không hủy diệt tri thức và không làm tổn thương thầy cô của chúng, không bị giải đi vào đồn công an ở tuổi thiếu niên, và không bị ép để sinh ra để trở thành công cụ cho ai đó, mà có quyền chọn cho mình một cuộc đời tự do, một lối đi tự do mà chúng muốn.